Bản án 03/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 22 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Vũ Thị Y, sinh ngày 15/3/1991 tại xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố C, thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Nam Định; Chỗ ở hiện nay: Ki ốt số 50, khu du lịch D, thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đức Chí và bà Đỗ Thị Cậy; có chồng là anh Vũ Đình Vượng, có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 27/10/2018 đến ngày 29/10/2018, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

Người làm chứng:

1. NLC1; “vắng mặt”;

2. NLC2; “vắng mặt”;

3. Chị NLC3; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 26/10/2018, NLC1 và NLC2 đến ki ốt 50 do Vũ Thị Y đang quản lý chơi. Khi đến ki ốt 50 NLC1 và NLC2 gọi bia và mực cùng nhau ăn uống. Trong lúc đang ăn uống NLC1 gọi Vũ Thị Y hỏi bao nhiêu tiền một ca mua dâm thì Vũ Thị Y bảo giá 200.000 đồng, NLC1 đặt vấn đề với Vũ Thị Y bố trí cho một nhân viên nữ để NLC1 mua dâm, Vũ Thị Y đồng ý vào gọi NLC3, sinh năm 1969 là nhân viên giúp việc của ki ốt 50 ra tiếp khách (NLC3 hiểu ý Vũ Thị Y là ra bán dâm cho khách) nên đồng ý. Vũ Thị Y bảo NLC1 và NLC3 vào phòng số 05 ki ốt 50 để mua bán dâm. Đến khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày trong lúc Lê Văn NLC1 và NLC3 đang mua bán dâm trong phòng số 05 ki ốt 50 thì bị Tổ công tác Công an huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định kiểm tra phát hiện lập biên bản bắt người có hành vi phạm pháp quả tang. Thu giữ tại phòng số 05 một vỏ bao cao su nhãn hiệu và 01 ruột bao cao su đó qua sử dụng. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy, Vũ Thị Y đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên và khai nhận sau khi mua bán dâm xong thu tiền của khách Vũ Thị Y trả cho NLC3 140.000 đồng còn lại 60.000 đồng Vũ Thị Y chiếm hưởng.

Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 07/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Vũ Thị Y về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Y phạm tội “Chứa mại dâm”; áp dụng khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Vũ Thị Y từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thửa thách từ 36 đến 48 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng mua bán dâm, tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao cao su, 01 ruột bao cao su, 01 bao cao su và 01 mẩu giấy.

Bị cáo không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về việc kết tội bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, với lời khai người làm chứng cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ, ngày 26/10/2018, tại cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch ở ki ốt 50, khu du lịch Quất Lâm, thị trấn Quất Lâm huyện Giao Thuỷ do Vũ Thị Y đang quản lý, Vũ Thị Y đã cho chị NLC3 (nhân viên trong cơ sở) bán dâm cho NLC1 để thu tiền thì bị bắt quả tang. Do đó, hành vi của bị cáo Vũ Thị Y đã cấu thành tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự, như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy.

 [3] Về tính nguy hiểm của hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đến đời sống văn hóa, trật tự trị an xã hội. Hành vi này bị xã hội lên án mạnh mẽ và cần thiết phải được loại trừ.

 [4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [5] Về hình phạt chính: Từ những phân tích trên, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù theo khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo cải tạo tại nơi cư trú như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo và đấu tranh chống tội phạm nói chung, đồng thời phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản giá trị, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, như quy định tại khoản 5 Điều 327 Bộ luật Hình sự.

 [7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:

 [7.1] Số tiền 200.000 đồng đã thu giữ mà NLC1 định trả cho Vũ Thị Y đểmua dâm là tiền liên quan đến tội phạm nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

 [7.2] Đối với 01 vỏ bao cao su, 01 ruột bao cao su, 01 bao cao su và 01 mẩu giấy đều không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

 [8] Đối với NLC1 và NLC3 đã có hành vi mua bán dâm. Xét thấy hành vi của NLC1 và NLC3 chưa đến mức phải xử lý về hình sự nên Công an huyện Giao Thuỷ đã xử lý hành chính là phù hợp.

 [9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Y phạm tội “Chứa mại dâm”;

Xử phạt bị cáo Vũ Thị Y 24 (hai mươi bốn) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án; ( bị cáo Vũ Thị Y đã bị tạm giữ từ 27/10/2018 đến 29/10/2018)

Giao Vũ Thị Y cho Ủy ban nhân dân thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Trong trường hợp Vũ Thị Y thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), theo Biên lai thu số 05562 ngày 08/01/2019 của Chi cục Thi hành án huyện Giao Thủy.

Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ bao cao su, 01 ruột bao cao su, 01 bao cao su và 01 mẩu giấy (Được ghi chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Vũ Thị Y phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về