Bản án 03/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 16 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: 

Kiều Bá D, sinh ngày 26 tháng 10 năm 1987, tại xã A, huyện B, tỉnh Phú Thọ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu Z, thôn S, xã A, huyện B, tỉnh Phú Thọ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Công giáo; giới tính: Nam; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông: Kiều Văn I và bà Nguyễn Thị F; vợ Nguyễn Thị G; con có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị pháp luật xử lý; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12 tháng 10 năm 2018 đến ngày 14 tháng 11 năm 2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn (bảo lĩnh), có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 12 tháng 10 năm 2018 tại km P quốc lộ O, thuộc địa phận thôn X, thị trấn U, huyện Y, tỉnh Lạng Sơn. Công an huyện Chi Lăng phối hợp với đội tuần tra kiểm soát giao thông Tùng Diễn - phòng PC08 Công an tỉnh Lạng Sơn dừng xe ô tô biển kiểm soát 15C-149.82 kéo rơ moóc biển kiểm soát 15R-067.14 do Kiều Bá D điều khiển. Kiểm tra phát hiện trong cabin xe có 01 bao tải dứa màu xanh, bên trong có 01 thùng bìa catton chứa 18 khối hộp pháo (loại 36 quả/ hộp), tổng trọng lượng 26 kg. D khai nhận toàn bộ là pháo nổ của D mua ở Trung Quốc vận chuyển về Việt Nam để sử dụng. Công an huyện Chi Lăng đã tạm giữ: Vật chứng; phương tiện, giấy tờ xe liên quan; giấy phép lái xe, sổ thông hành xuất nhập cảnh qua vùng biên giới, giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Kiều Bá D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL màu đen đỏ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S màu trắng vàng của D.

Tại bản Kết luận giám định số 24/KL-PC09 ngày 14 tháng 10 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Mẫu vật thu giữ của Kiều Bá D gửi giám định có chứa thuốc pháo, khi đốt gây ra tiếng nổ. Tại cơ quan điều tra Kiều Bá D khai nhận: D là nhân viên lái xe của Công ty trách nhiệm hữu hạn C, địa chỉ số A, tổ dân phố Z, phường E, quận U, thành phố Hải Phòng. Khoảng 05 giờ ngày 11 tháng 10 năm 2018 D điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 15C-149.82 xe của công ty C kéo theo rơ moóc chở hàng đông lạnh từ thành phố Hải Phòng lên cửa khẩu K thuộc huyện S, tỉnh Lạng Sơn để xuất hàng sang Trung Quốc. Khoảng 13 giờ cùng ngày D đến cửa khẩu K và dừng xe nghỉ tại bãi xe G. Đến 09 giờ ngày 12 tháng 10 năm 2018 D điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 15C-149.82 sang Trung Quốc qua cửa khẩu K để giao hàng. Khi sang đến Trung Quốc, trong lúc đợi bốc dỡ hàng, D vào quán cơm của người Trung Quốc gồm một nam và một nữ, không quen biết có bày bán pháo, nên D nảy sinh ý định mua vận chuyển về Việt Nam có dịp sẽ mang về quê ở Phú Thọ để sử dụng (đốt) trong dịp Tết. D hỏi mua một thùng pháo gồm 18 hộp loại 36 quả/ hộp, người phụ nữ biết nói tiếng Việt Nam bảo D giá 1.620.000 đồng. D bảo hai người Trung Quốc ghi biển kiểm soát xe ô tô và hẹn 15 giờ thì mang pháo ra xe cho D. Đến khoảng 15 giờ 30 phút thì người đàn ông ở quán cơm chở một bao tải dứa màu xanh bên trong chứa 18 hộp pháo bằng xe máy đến xe ô tô giao cho D. D thanh toán tiền và bê bao tải đựng pháo lên cabin xe rồi điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 15C-149.82 vận chuyển pháo từ Trung Quốc về Việt Nam qua cửa khẩu K đi theo quốc lộ O để về Hải Phòng. Khi xe đi đến địa phận thôn X, thị trấn U, huyện Y thì bị bắt quả tang. Ngày 17 tháng 10 năm 2018 Công an huyện Chi Lăng đã tiến hành tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ còn lại sau giám định cùng 01 thùng bìa cát tông màu nâu đựng pháo. Đối với hai người Trung Quốc đã bán pháo cho D do không có thông tin cụ thể nên không thể tiến hành điều tra, xác minh. Đối với Công ty TNHH C do ông Trần Quang H là giám đốc hoàn toàn không biết việc D sử dụng xe ô tô của công ty để vận chuyển pháo. Ngày 24 tháng 10 năm 2018 Công an huyện Chi Lăng trả lại cho ông Trần Quang H xe ô tô biển kiểm soát 15C-149.82 và toàn bộ giấy tờ liên quan thuộc sở hữu của công ty.

Tại phiên tòa bị cáo Kiều Bá D thừa nhận bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo là đúng, do thiếu hiểu biết pháp luật nên bị cáo đã mua pháo nổ của vợ chồng người Trung quốc mang về để đốt vào dịp tết, ngoài ra bị cáo không có mục đích nào khác, nay bị truy tố, xét xử về tội vận chuyển hàng cấm, bị cáo không có ý kiến thắc mắc gì.

Bản cáo trạng số 05/CT-VKSCL ngày 27 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Kiều Bá D về tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm k khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Kiều Bá D phạm tội Vận chuyển hàng cấm. Về hình phạt: Áp dụng điểm k khoản 2 Điều 191; Điều 50; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Kiều Bá D từ 24 tháng đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 01 bao tải dứa màu xanh.

Trả lại cho bị cáo 01 giấy chứng minh thư nhân dân; 01 giấy phép lái xe; 01 quyển sổ thông hành xuất nhập cảnh qua vùng biên giới; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Ngày 12 tháng 10 năm 2018 Kiều Bá D đã thực hiện hành vi vận chuyển hàng cấm (pháo nổ) tổng trọng lượng 26 kg từ Trung Quốc qua cửa khẩu K thuộc huyện S, tỉnh Lạng Sơn về Hải Phòng để có dịp mang về quê đốt trong dịp tết nguyên đán. Hành vi vận chuyển trái phép pháo nổ của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 12 tháng 10 năm 2018 và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Kiều Bá D phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm k khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi vận chuyển hàng cấm (pháo nổ) của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước về quản lý kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán và đốt các loại pháo nổ. Bị cáo Kiều Bá D là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi vận chuyển pháo nổ là hành vi bị nghiêm cấm, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

[5] Để cá thể hóa hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội nêu trên còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Kiều Bá D chưa có tiền án, tiền sự trong tàng thư, cơ sở dữ liệu do cục C53 và Phòng hồ sơ quản lý theo trích lục tiền án tiền sự ngày 10 tháng 11 năm 2018 của Công an tỉnh Lạng Sơn. Bị cáo được xác định là có nhân thân tốt.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhất thời phạm tội, có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo chấp hành tốt các chính sách đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước tại địa phương, có xác nhận của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú.

[8] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[9] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018, Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo thì bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo. Xét thấy bị cáo Kiều Bá D có nơi cư trú rõ ràng, nên việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là không cần thiết, cho bị cáo tự cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đảm bảo tính giáo dục và phòng ngừa.

[10] Về hình phạt bổ sung, theo biên bản xác minh ngày 25 tháng 10 năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Phú Thọ, xác định bị cáo Kiều Bá D không có tài sản riêng, lái xe thuê kiếm sống, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[11] Vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an huyện Chi Lăng đã xử lý xong bằng hình thức tiêu hủy theo đúng quy định của pháp luật. Đối với các giấy tờ tùy thân và tài sản là điện thoại của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo như giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, sổ thông hành và 02 điện thoại di động.

[12] Đối với hai người Trung Quốc đã bán pháo cho D do không có thông tin cụ thể nên không thể tiến hành điều tra, xác minh.

[13] Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn C do ông Trần Quang H là giám đốc hoàn toàn không biết việc Kiều Bá D sử dụng xe ô tô của công ty để vận chuyển pháo nổ, nên ngày 24 tháng 10 năm 2018 Công an huyện Chi Lăng trả lại cho ông Trần Quang H xe ô tô biển kiểm soát 15C-149.82 và toàn bộ giấy tờ liên quan thuộc sở hữu của công ty là đúng quy định của pháp luật.

[14] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Kiều Bá D theo tội danh và điều luật trong Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Mức hình phạt của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị đối với bị cáo Kiều Bá D từ 24 đến 30 tháng tù cho hưởng án treo là phù hợp nên được chấp nhận.

[15] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm k khoản 2 Điều 191; Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Kiều Bá D phạm tội Vận chuyển hàng cấm.

Xử phạt bị cáo Kiều Bá D 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm, tính từ ngày xét xử sơ thẩm ngày 16 tháng 01 năm 2019. Giao bị cáo Kiều Bá D cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Vật chứng:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 bao tải dứa màu xanh.

Trả lại cho bị cáo Kiều Bá D: 01 giấy chứng minh thư nhân dân số 131249969; 01 giấy phép lái xe số 790155014918 mang tên Kiều Bá D; 01 quyển sổ thông hành xuất nhập cảnh qua vùng biên giới số A.0605876; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL màu sơn đen đỏ số IMEL 35458509037527 máy cũ đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S số kiểu A 1601 màu sơn trắng vàng, máy cũ đã qua sử dụng (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chi Lăng với Chi cục thi hành án dân sự huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày 02 tháng 01 năm 2019).

3. Án phí: Bị cáo Kiều Bá D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp công quỹ Nhà nước.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về