Bản án 03/2019/HS-ST ngày 14/02/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 14/02/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 14 tháng 02 năm 2019 tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Đình P, sinh năm 1995, tại: Bình Thuận. Nơi cư trú: Thôn B, xã T3, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: làm bảo vệ; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo:không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình T1, sinh năm 1964 và bà Phạm Thị T4, sinh năm 1965, cùng trú tại: Thôn B, xã T3, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; gia đình có 03 chị em, P là con út trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 29/2019/HSST-LCCT ngày 30/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Nguyễn Minh C, sinh năm 1998. Nơi cư trú: Thôn Đ1, xã Đ2, 2 huyện Đ, tỉnh Bình Thuận (đã chết)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Trọng H, sinh năm 1956. Nơi cư trú: Thôn Đ1, xã Đ2, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận (ông H cũng là người nhận ủy quyền của bà Phạm Thị Hằng). Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Đình T1, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Thôn B, xã T3, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Vũ Ngọc D. Vắng mặt.

+ Bà Đặng Thị Bạch T2. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 03/9/2018, Phạm Đình P, có giấy phép lái xe hạng A1, điều khiển xe mô tô biển số 86B8-XXXXX, dung tích 134 cm3 đi từ nhà ở Thôn B, xã T3, huyện Đ đến huyện X, tỉnh Đồng Nai để đón chị ruột từ Thành phố Hồ Chí Minh về thăm gia đình. Khi đi đến cầu G giáp ranh giữa xã Đ2, huyện Đ và huyện X, tỉnh Đồng Nai, Phạm Đình P phát hiện không mang theo điện thoại nên quay đầu xe trở về nhà để lấy điện thoại. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến Km 14+40 thuộc địa phận thôn H, xã Đ2, huyện Đ, Phạm Đình P điều khiển xe mô tô biển số 86B8-XXXXX vượt về phía bên trái một xe ô tô đang chạy cùng chiều phía trước. Lúc này có xe mô tô biển số 86B8-YYYYY do Nguyễn Minh C điều khiển đang lưu thông theo hướng ngược lại. Do khoảng cách quá gần, Phạm Đình P không làm chủ được tay lái nên đã để xe mô tô biển số 86B8-XXXXX tông vào xe mô tô biển số 86B8-YYYYY trên phần đường bên trái theo hướng từ huyện X, tỉnh Đồng Nai đi xã T3, huyện Đ làm cả hai xe và người ngã xuống đường. Nguyễn Minh C bị thương nặng và chết trên đường đưa đi cấp cứu. Phạm Đình P bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Khu vực Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông lập hồi 20 giờ 30 phút ngày 03/9/2018 thể hiện:

Hiện trường nơi xảy ra tai nạn giao thông là đoạn đường thẳng, mặt đường rải nhựa rộng 11m, không giao nhau với ngã ba, ngã tư. Có vạch sơn trắng đứt quãng ở giữa đường để phân chia chiều đường xe chạy và không có bản báo hiệu đường bộ.

Khám nghiệm hiện trường và lấy lề đường bên phải theo hướng từ huyện X, tỉnh Đồng Nai đi xã T3 huyện Đ làm lề chuẩn ghi nhận được các phương tiện, dấu vết sau:

(1) Xe mô tô biển số 86B8-YYYYY nằm ngã nghiêng bên phải, đầu xe hướng về huyện X, tỉnh Đồng Nai. Xe mô tô biển số 86B8- YYYYYnằm trên phần đường bên trái và nằm sát mép đường bên trái theo hướng khám nghiệm. Đo từ tâm trục bánh trước vào lề chuẩn là 9,87m; đo từ tâm trục bánh sau vào lề chuẩn là 10,59m; đo từ tâm trục bánh sau đến tâm vùng mảnh vỡ là 3,2m.

(2) Vùng mảnh vỡ nhựa để lại trên mặt đường nằm gần vị trí của xe mô tô biển số 86B8-XXXXX có kích thước là 1,5m x 0,75m; đo từ tâm vùng mảnh vỡ đến lề chuẩn là 7,45m; đo từ tâm vùng mảnh vỡ đến tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 86B8-XXXXX là 1,2m.

(3) Xe mô tô biển số 86B8-XXXXX nằm ngã nghiêng bên phải, nằm trên phần đường bên trái, đầu xe hướng vào lề trái, đuôi xe hướng vào lề chuẩn theo hướng khám nghiệm. Đo từ tâm trục bánh sau xe vào lề chuẩn là 6,55m; đo từ tâm trục bánh trước vào lề chuẩn là 7,77m; đo từ tâm trục bánh trước đến đầu vết cày 1 là 0,85m; đo từ tâm trục bánh trước đến tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 86B8- 431.38 là 3,2m; đo từ tâm trục bánh sau đến đầu vết cày 2 là 0,8m.

(4) Vết cày 1 đứt quãng để lại trên mặt đường trên phần đường bên trái theo hướng khám nghiệm dài 3,2m và rộng 0,5cm; đuôi vết cày 1 trùng với gác để chân bên phải người điều khiển xe mô tô biển số 86B8-YYYYY; đo từ đầu vết cày 1 vào lề chuẩn là 8,3m; đo từ đuôi vết cày 1 vào lề chuẩn là 10,28m; đo từ đầu vết cày 1 đến đầu vết cày 2 là 0,8m.

(5) Vết cày 2 dạng hình cong, liền nét có chiều dài là 0,8m và rộng 0,5cm để lại trên mặt đường bên trái theo hướng khám nghiệm; đuôi vết cày 2 trùng với vị trí đầu tay cầm lái bên phải của xe mô tô 86B8-XXXXX; đo từ đầu vết cày 2 vào lề chuẩn là 6,63m; đo từ đuôi vết cày 2 vào lề chuẩn là 7,54m.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 788/PY-PC09 ngày 11/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Nguyên nhân chết của Nguyễn Minh C là do thủng phổi trái.

Tại Bản kết luận giám định số 852/KLGĐ-PC54 ngày 18/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Thuận kết luận về dấu vết cơ học:

1. Xe mô tô biển số 86B8-XXXXX di chuyển theo hướng từ X, Đồng Nai đi xã T3, huyện Đ. Xe mô tô biển số 86B8-YYYYY di chuyển theo hướng ngược lại.

2. Xe mô tô biển số 86B8-XXXXX có các dấu vết va chạm: Dấu vết cong, biến dạng vành bánh xe trước có chiều hướng từ ngoài mặt lăn vào tâm trục bánh xe, vỏ và săm xe bung ra ngoài; cong vênh giảm xóc trước bên phải theo hướng từ trước ra sau; vỡ, rơi ra khỏi vị trí ban đầu cụm đèn chiếu sáng phía trước, vỡ đèn xi nhan bên phải; vỡ chắn gió phía trước, trên mặt có bám dính chất màu đen phù hợp với các dấu vết va chạm trên xe mô tô biển số 86B8-YYYYY: Dấu vết cong vênh biến dạng vành bánh xe trước có chiều hướng từ ngoài mặt lăn vào tâm trục bánh xe, vỏ và săm xe bung ra ngoài; cong chảng ba giảm xóc trước theo hướng từ trước ra sau xe; vỡ, rơi ra khỏi vị trí ban đầu cụm đèn chiếu sáng và đèn xi nhan trước; vỡ chắn gió trước bên trái, trên mặt có bám dính chất màu trắng.

Vị trí va chạm giữa xe mô tô biển số 86B8-XXXXX và xe mô tô biển số 86B8-YYYYY nằm trên phần đường bên phải theo hướng từ T3 đi huyện X, Đồng Nai.

3. Vết cày ký hiệu số 4 trên hiện trường tai nạn giao thông phù hợp với vết mài mòn kim loại của gác chân trước bên phải xe mô tô biển số 86B8-YYYYY. Vết cày số 4 có chiều hướng từ T3 đi X, Đồng Nai và được tạo ra do sau khi va chạm với xe mô tô biển số 86B8-XXXXX dẫn đến xe mô tô biển số 86B8-YYYYY ngã bên phải và tiếp tục trược đi theo quán tính làm gác chân trước bên phải cày trên mặt đường nhựa.

Vết cày ký hiệu số 5 trên hiện trường tai nạn giao thông phù hợp với vết mài mòn kim loại của ốp tay lái bên phải xe mô tô biển số 86B8-XXXXX. Vết cày số 5 có hình cung cong chiều hướng vào lề đường trái theo hướng chuẩn khám nghiệm và được tạo ra do sau khi va chạm với xe mô tô biển số 86B8-YYYYY làm cho xe mô tô 86B8-XXXXX ngã về phía bên phải và tiếp tục trượt theo quán tính về phía trước kết hợp xoay về bên trái làm ốp tay lái bên phải bằng kim loại cày theo hình cung trên mặt đường nhựa.

4. Mảnh nhựa vỡ màu trắng kích thước 46cm x 26cm trùng khớp với phần nhựa màu trắng, bị gãy còn lại của ốp nhựa bảo vệ chi tiết máy phía trước bên trái xe mô tô 86B8-XXXXX 5 Cụm đèn chiếu sáng phía trước bị rơi ra ngoài gồm: bóng đèn, chóa đèn và kính bảo vệ bằng nhựa, màu trắng trong suốt có kích thước 21cm x 19cm trùng khớp với vị trí gắn cụm đèn chiếu sáng phía trước của xe mô tô 86B8-XXXXX Mảnh nhựa vỡ màu đen kích thước 65cm x 18cm trùng khớp với phần nhựa màu đen bị gãy còn lại của chắn gió phía trước bên trái xe 86B8-YYYYY Cụm đèn chiếu sáng phía trước bị rơi ra ngoài gồm: bóng đèn, chóa đèn và kính bảo vệ bằng nhựa, màu trắng trong suốt có kích thước 23cm x 10cm trùng khớp với vị trí gắn cụm đèn chiếu sáng phía trước của xe mô tô 86B8-YYYYY.

Tại Kết luận giám định số 853/KLGĐ-PC09 ngày 15/10/2018 kết luận:

1) Xe mô tô biển số 86B8-XXXXX:

Hệ thống phanh bánh trước và bánh sau được lắp đặt không đúng kỹ thuật.

Không đủ điều kiện thực nghiệm xác định hiệu lực của phanh bánh trước và bánh sau.

Hệ thống đèn chiếu sáng phía trước, đèn tín hiệu phía trước bên phải bị bể. Hệ thống đèn tín hiệu phía sau bên phải và bên trái lắp đặt đầy đủ.

Không đủ điều kiện thực nghiệm xác định hiệu lực hệ thống đèn tín hiệu phía trước và phía sau bên phải và bên trái.

Không đủ điều kiện xác định vận tốc của xe mô tô biển số 86B8-XXXXX.

2) Xe mô tô 86B8-YYYYY:

Hệ thống phanh bánh trước và bánh sau được lắp đặt đầy đủ, đúng vị trí, không phát hiện dấu vết hư hỏng. Không đủ điều kiện thực nghiệm xác định hiệu lực của phanh bánh trước và bánh sau.

Hệ thống đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu phía trước bên phải và bên trái vỡ. Đèn báo phanh, đèn tín hiệu phía sau bên phải và bên trái hoạt động.

Không đủ điều kiện xác định vận tốc của xe mô tô biển số 86B8 – YYYYY.

Tại Công văn trả lời số 1622 ngày 21/9/2018 của Bệnh viện Đa khoa Khu vực Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xác định: Nồng độ cồn trong máu của Phạm Đình P vào lúc 22 giờ ngày 03/9/2018 là 59,67mg/dl (12,95mmol/l).

Tại Kết luận định giá tài sản số 66/KL-HĐĐG ngày 29/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đức Linh xác định: Tổng giá trị thiệt hại của xe mô tô 86B8-YYYYY là 3.220.000 đồng.

Vật chứng trong vụ án:

Một xe mô tô biển số: 86B8-XXXXX đã trả lại cho ông Phạm Đình T1; một xe mô tô biển số: 86B8-YYYYY đã trả lại cho ông Nguyễn Trọng H.

Một áo khoác màu đen tay dài trên áo có ghi chữ CUCCCI và một áo sơ mi tay dài màu đen trên áo có ghi chữ MR-T đã trả lại cho gia đình Nguyễn Minh C.

Một giấy phép lái xe số 7901531ZZZZZ hạng A1 đã trả lại cho Phạm Đình P. Một số mảnh vỡ nhựa thu giữ tại hiện trường không còn giá trị sử dụng.

Về dân sự:

Phạm Đình P đã bồi thường cho ông Nguyễn Trọng H và bà Phạm Thị H3 là cha mẹ ruột của bị hại Nguyễn Minh C số tiền 100.000.000 đồng. Ông Nguyễn Trọng H, đại diện gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin bãi nại cho Phạm Đình P.

Tại cáo trạng số 04/CT-VKS-HS ngày 09/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh truy tố Phạm Đình P ra trước Tòa án nhân dân huyện Đức Linh để xét xử về tội: Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh giữ nguyên cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; đề nghị xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng. Đồng thời đề nghị tịch thu tiêu hủy các mảnh vỡ là vật chứng trong vụ án do không còn giá trị sử dụng.

Người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu về thiệt hại xe mô tô biển kiểm soát 86B8-XXXXX.

Bị cáo Phạm Đình P thừa nhận hành vi phạm tội của mình và trình bày lời sau cùng như sau: Bị cáo thấy ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là lần phạm tội đầu tiên do vô ý, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội khắc phục, sữa chữa lỗi lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Qua tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ đó Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở để kết luận: Sau khi sử dụng rượu bia với nồng độ cồn vượt quá quy định (59,67 mg/dl), Phạm Đình P đã điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 86B8-XXXX đi đón chị gái tại huyện X, tỉnh Đồng Nai về thăm nhà. Do trên đường đi phát hiện quên điện thoại nên P điều khiển xe quay ngược về nhà. Khi đến Km 14+40 thuộc địa phận thôn H, xã Đ1, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận, Phạm Đình P điều khiển xe vượt trái ô tô đi cùng chiều phía trước, lúc này vì đi không đúng phần đường quy định, thiếu chú ý quan sát, không làm chủ được tay lái nên Phạm Đình P để xe của mình điều khiển tông vào xe mô tô biển kiểm soát 86B8-YYYYY do Nguyễn Minh C điều khiển đang lưu thông theo chiều ngược lại, hậu quả làm C chết trên đường đi cấp cứu. Vì vậy hành vi của Phạm Đình P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh đã truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông công cộng, xâm phạm đến tính mạng của người khác, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự công cộng, gây tổn thất nặng nề về con người cho gia đình và xã hội. Bị cáo là người đã được học luật giao thông, có đầy đủ năng lực pháp luật, có thể nhận thức được hành vi của mình là vi phạm nhưng vẫn điều khiển xe khi đã uống rượu bia vượt mức quy định, chạy xe đi không đúng phần đường quy định đã gây ra tai nạn giao thông nghiêm trọng, thể hiện bị cáo ý thức chấp hành pháp luật thấp, xem thường sức khỏe của bản thân và của những người tham gia giao thông. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường khắc phục số tiền lớn cho gia đình người bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại xin bãi nại hình phạt cho bị 8 cáo; gia đình của Phạm đình P là gia đình liệt sỹ, ông bà nội là người có công với cách mạng được nhà nước tặng thưởng huân, huy chương; bản thân Phạm Đình P cũng tham gia vào công tác dân quân tự vệ tại địa phương nên Phạm Đình P được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy cần lượng giảm cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp, đồng thời thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

Xét thấy bị cáo Phạm Đình P có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng nên nghĩ không cần cách ly ra khỏi xã hội mà chỉ cần giao bị cáo về cho chính quyền địa phương phối hợp cùng gia đình giáo dục là được.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện thoả thuận bồi thường số tiền 100.000.000đồng cho gia đình bị hại, tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì khác; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Đình T1 không có yêu cầu về thiệt hại đối với xe mô tô biển kiểm soát 86B8-XXXXX. Đây là sự tự nguyện của các đương sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tịch thu tiêu hủy các mảnh vỡ do không còn giá trị sử dụng.

[5] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên Công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên buộc phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Đình P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Phạm Đình P 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm tính từ ngày tuyên án (14/02/2019).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Phạm Đình P cho UBND xã T3, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận để quản lý, giáo dục. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tịch thu tiêu hủy các mảnh vỡ là vật chứng trong vụ án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Đình P phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 14/02/2019, để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm./.

(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo ngay tại phiên tòa).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 14/02/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về