Bản án 03/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 14/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Vi Văn P, sinh ngày 02 tháng 03 năm 1990 tại Bắc Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn T, xã S, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn Đ và bà Vi Thị B; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/11/2018 đến nay, có mặt.

*Ngưi bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn Thảo, sinh năm 1977; Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc. “có mặt”.

Đa chỉ: Số 12, đường Trường Chinh, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

*Ngưi làm chứng: 

Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1975 “vắng mặt”.

Ông Đỗ Ngọc K, sinh năm 1966 “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07giờ ngày 06/11/2018 Vi Văn P đi bộ lang thang đến khu vực xã T, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, sau đó gặp và mua 01 gói ma túy của một người đàn ông không rõ danh tính, địa chỉ với giá 100.000đồng với mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, P gặp 01 người đàn ông tự giới thiệu tên là “C” rủ về khu vực thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để kiếm việc làm. Vi Văn P đồng ý, nên cùng C đi bằng xe mô tô của C về thành phố Phúc Yên. Khoảng 08 giờ 40 phút Vi Văn P và C vào ngồi uống nước tại quán nước ven đường thuộc tổ 4, phường H, thành phố Phúc Yên. Một lúc sau C bảo Vi Văn P ngồi chờ tại đó để C đi có việc rồi quay lại đi tìm việc cho P. Đến khoảng 08 giờ 55 phút cùng ngày, khi P đang ngồi uống nước thì bị Công an thành phố Phúc Yên đến kiểm tra phát hiện và bắt giữ P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại túi quần sau bên trái của Vi Văn P 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa cục bột màu trắng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 (P tự khai đó là gói ma túy heroine vừa mua được để sử dụng).

Tại bản kết luận giám định số: 1639/KLGĐ ngày 09/11/2018, Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định và kết luận:“ Chất cục bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy có khối lượng là 0,1966g (Không phảy một chín sáu sáu gam, không kể bao bì), loại Heroine”. Cơ quan giám định hoàn lại mẫu vật: A1 = 0,0938 gam cùng toàn bộ bao gói, cần tịch thu tiêu hủy.

Về người đã bán ma túy cho Vi Văn P vào ngày 06/11/2018 và người rủ P đến Phúc Yên tìm việc làm tự xưng tên là C, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch cụ thể, nên Cơ quan điều tra đề nghị xử lý sau.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Vi Văn P thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố.

Tại Cáo trạng số: 03/CT-VKSPY ngày 17 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố Vi Văn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đối với bị cáo Vi Văn P; sau khi đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo P từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật và đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Thiết là ông Nguyễn Văn Thảo – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc trình bày lời bào chữa cho bị cáo: Bị cáo Vi Văn P là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; hoàn cảnh gia đình rất khó khăn thuộc hộ nghèo; bị cáo chưa có vợ con và không có công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Nên đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt và miễn án phí hình sự cho bị cáo.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phúc Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà Vi Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như: lời khai của người làm chứng; biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng đã thu giữ được. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 8 giờ 55 phút ngày 06 tháng 11 năm 2018, tại khu vực bến xe Phúc Yên thuộc tổ 4, phường H, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc,Vi Văn P đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại heroine có khối lượng 0,1966 gam với mục đích để sử dụng thì bị Công an thành phố Phúc Yên phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Vi Văn P đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tù. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo theo Cáo trạng số: 03/CT-VKSPY ngày 17 tháng 12 năm 2018 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính coi thường pháp luật, đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân, tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo nghiện ma túy từ tháng 01 năm 2017. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng phải xử lý nghiêm, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian như mức án đề nghị của Viện kiểm sát mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục chung, cũng như giúp bị cáo cải tạo thành người công dân tốt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng, quá trình điều tra và làm rõ tại phiên tòa bị cáo nghiện ma túy không có tài sản, không có nghề nghiệp và thu nhập. Vì Vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo là phù hợp.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Vi Văn P, quá trình điều tra đến nay chưa xác định được nhân thân, lý lịch, khi làm làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[7] Đối với đối tượng tự khai là C đã rủ Vi Văn P đến Phúc Yên tìm việc, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh chưa xác định được nên đề cập xử lý sau là phù hợp.

[8] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu, tiêu hủy mẫu cùng toàn bộ bao gói do Cơ quan giám định hoàn lại sau giám định.

[9] Về án phí: Bị cáo là người thuộc diện hộ nghèo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tại phiên tòa bị cáo có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vi Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Vi Văn P 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06 tháng 11 năm 2018.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu, tiêu hủy mẫu A1 = 0,0938 gam cùng toàn bộ bao gói.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 07 tháng 01 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phúc Yên).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vi Văn P.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về