TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 120/2018/HSST, ngày 29 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1992 (có mặt); Tên gọi khác: Tuấn A; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chỗ ở: Ấp D, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 5/12; con ông: Nguyễn Văn M (đã chết) và bà: Lê Thị C; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ trong trường hợp đầu thú từ ngày 15 tháng 10 năm 2018 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay.
Bị hại: Ông Trịnh Sáng T, sinh năm 1981 (có mặt)
Trú tại: Khóm B, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Nguyễn Thanh T đã thừa nhận thực hiện hành vi như sau:
Vào ngày 22 tháng 11 năm 2014, sau khi đi ghe biển do Trịnh Sáng T làm chủ, Nguyễn Thanh T đến ở nhà ông T tại khóm B, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau. Khoảng 16 giờ cùng ngày, ông T có tổ chức nhậu tại nhà gồm có T, T, G, T. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, G say rượu lên võng ngủ, T lái xe đưa T ra bến đò. Lợi dụng ông T đi vắng, T vào phòng của T tìm tài sản chiếm đoạt. T mở ngăn tủ giường hộp lấy số tiền 43.000.000 đồng bỏ vào túi quần của T; rồi bước ra nhà trước thì phát hiện trên mặt bàn có 01 điện thoại hiệu ASUS màn hình cảm ứng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại bàn phím bấm, Tuấn lấy 02 chiếc điện thoại trên bỏ vào túi rồi đi khỏi nhà của ông T. Sau khi bị mất tài sản, ông T có đơn trình báo chính quyền địa phương.
Đến ngày 15 tháng 10 năm 2018, T đến Công an huyện T đầu thú.
Tại Kết luận định giá tài sản số 67/BB–KL ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá của Ủy ban nhân dân huyện T kết luận: 01 điện thoại hiệu ASUS màn hình cảm ứng trị giá 2.560.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại bàn phím bấm trị giá 367.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Nguyễn Thanh T chiếm đoạt là 45.927.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 125/CT-VKS ngày 27 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời truy tố Nguyễn Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh T thừa nhận toàn bộ hành vi như sau: Vào khoảng 18 giờ ngày 22 tháng 11 năm 2014, lợi dụng ông Trịnh Sáng T không có ở nhà, lơi lỏng trong quản lý tài sản, bị cáo vào phòng ngủ của ông T tại khóm B, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau chiếm đoạt 43.000.000 đồng; sau đó bước ra nhà trước của ông T chiếm đoạt tiếp 01 điện thoại hiệu ASUS màn hình cảm ứng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại bàn phím bấm của ông T.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, bị cáo T đã có hành vi lợi dụng ông T đi ra khỏi nhà, không có ai trông coi tài sản nên đã chiếm đoạt của ông T 43.000.000 đồng, 01 điện thoại hiệu ASUS màn hình cảm ứng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại bàn phím bấm. Toàn bộ tài sản trên được định giá 45.927.000 đồng. Hành vi của bị cáo thể hiện thái độ lén lút nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại làm cho bị hại không biết tài sản của mình bị người khác chiếm đoạt. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được Bộ luật hình sự bảo vệ. Khi thực hiện hành vi vi phạm bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện là vi phạm với lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi vi phạm bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời truy bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo như sau:
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử bị cáo từ 01 năm đến 02 năm tù.
Xét tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiễm cho xã hội làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có đủ sức khỏe lao động sản xuất nhưng do muốn có tiền nhanh chóng nên bị cáo đã chiếm đoạt thành quả lao động của người khác. Sau khi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn để không chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình. Do đó, Hội đồng xét xử cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và ngăn ngừa các hành vi tương tự xảy ra trong cộng đồng dân cư. Hội đồng xét xử quyết định cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo thành công dân tốt.
Tuy nhiên, bị cáo đã khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đầu thú và bị hại có đơn bãi nại và yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét có xem xét cho bị cáo khi lượng hình.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho ông Thành số tiền 46.000.000 đồng, ông T đã nhận số tiền trên. Ông T không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T (Tên gọi khác: Tuấn A) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 15 tháng 10 năm 2018.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (chưa nộp)
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 03/2019/HSST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 03/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về