Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình,  tỉnh  Thái  Bình  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  dân  sự  thụ  lý  số 154/2018/TLST - HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXX - ST ngày 13 tháng 12 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST – HNGĐ ngày 27/12/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1951;

Hộ khẩu thường trú: số nhà 02, ngách 07, ngõ 14, đường B, tổ 17, phường T, thành phố T, tỉnh T.

Nơi tạm trú: tổ 9, phường H, thành phố T, tỉnh T.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1958;

Nơi cư trú: số nhà 02, ngách 07, ngõ 14, đường B, tổ 17, phường T, thành phố T, tỉnh T.

(Ông S vắng, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bà V vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 02 tháng 9 năm 2018 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc S trình bày:

Ông S và bà Nguyễn Thị V tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn  tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh T vào ngày 15/12/1980. Khi đó ông S làm việc tại xí nghiệp thanh niên xây lắp 4 mỏ M, tỉnh Q, còn bà V làm việc tại nhà máy đay tỉnh T. Quá trình chung sống với nhau, vợ chồng hòa thuận rất hạnh phúc đến năm 2002 sau đó tình cảm vợ chồng nhạt dần. Khi ông S hết việc làm về nhà ở lâu chưa xin tiếp được việc là tính nết bà thay đổi đi đứng nói năng thiếu văn hóa, trong khi đó sổ lương của ông S bà V giữ, ông S đi làm thêm gửi về, mà khi nghỉ ở nhà dài chưa ký hợp đồng việc làm ông S không có cả tiền cắt tóc, tiền Đảng phí hỏi bà V nhưng bà ấy không đưa tận tay cho ông S mà chỉ để ở chỗ ông S hay qua lại mà lấy. Năm 2005 ông S và bà V sống ly thân, bà V ở tầng trên, ông S ở tầng dưới. Có những lần ông S sang trông cháu ở bên H về bà V ở nhà mà ông S gọi không ra mở cửa cho ông S vào, ông S phải sang hàng xóm gọi người làm chứng để phá khóa lúc đó bà V mới ra mở cửa. Khi mẹ đẻ ông S chết, bà V chỉ về đưa ma, từ đó trở đi không bao giờ bà V về thắp hương cho mẹ ông S một nén nhang. Đối với bên gia đình bà V, ông S đều tôn trọng, có công việc ông S đều có mặt. Đứa con lớn của ông S đã nhiều lần nó đóng cửa tổ chức họp gia đình nhưng bà V toàn lẩn tránh. Ông S đã báo cáo với chính quyền, tổ dân phố và hai bên nội ngoại đã gặp gỡ góp ý để hàn gắn, đoàn tụ. Cuối năm 2017 con trai thứ hai của ông S về sửa lại nhà, điện nước. Cả hai bố con đã nói chuyện với bà V, nhưng bà V không nghe mà còn lăng mạ, xúc phạm ông. Nay ông S xác định mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống với nhau được nữa nên đề nghị Tòa án cho ông được ly hôn với bà V.

Về con chung: Ông S và bà V có hai con chung là Nguyễn Anh T, sinh ngày 06/11/1981 và Nguyễn Tiến D, sinh ngày 02/9/1987. Hiện cháu T đã chết do tai nạn; cháu D đã trưởng thành và có việc làm nên ông S không đề nghị Tòa án đặt ra giải quyết về nuôi dưỡng và cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Tại bản tự khai đề ngày 01/10/2018 ông S có đề nghị phân chia tài sản chung nhưng tại phiên hòa giải ngày 13/11/2018 ông S xin rút yêu cầu phân chia tài sản để vợ chồng tự thỏa thuận. Ông S và bà V không có vay nợ chung gì của ai và không cho ai vay nợ tài sản gì, không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết về tài sản.

* Tại văn bản ghi ý kiến và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị V trình bày:

Về thời gian, địa điểm, thủ tục đăng ký kết hôn như ông S trình bày trên là đúng. Khi đó bà V làm ở tập thể nhà máy đay T, T. Sau khi kết hôn bà V ở khu tập thể nhà máy đay xã T, thị xã T (nay là phường T, thành phố T) còn ông S làm việc ở Q hàng năm về nghỉ phép 15 ngày và nghỉ lễ 02/9. Đến năm 1993 ông S nghỉ hưu vào miền Nam làm thêm hàng năm có về vào dịp Tết Nguyên đán. Vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông S thiếu quan tâm đến gia đình, vợ con, mặt khác khi đó bà V có ý định xây nhà tầng 02 để có chỗ ở cho con cưới vợ nhưng ông S không đồng ý, không hợp tác, không góp tiền cùng bà V xây nhà, nhưng bà V vẫn quyết định xây thêm tầng 02. Từ đó giữa vợ chồng không nói chuyện bàn bạc gì với nhau, khi ông S về bà tránh mặt không gặp, không nói chuyện, tuy ở chung nhưng từ năm 2003 đến nay do mâu thuẫn nên vợ chồng đã sống ly thân. Đến năm 2010 ông S về nhà ở, vợ chồng mỗi người một phòng, không ăn chung với nhau, tiền lương của ai người ấy sử dụng, việc của ai người ấy làm, khi bà V ốm đau không hỏi han, không quan tâm đến nhau. Ông S hàng ngày đi đâu làm gì bà V không biết, không quan tâm đến nhau. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, con trai lớn của bà V đã có một lần đặt vấn đề họp gia đình để dàn xếp mâu thuẫn nhưng bà V không chấp nhận vì xác định cũng không giải quyết được mâu thuẫn vợ chồng. Đến khoảng tháng 5 năm 2016 ông S sang nhà con trai lớn tại tổ 9, phường H, thành phố Thái Bình ở đến nay, vợ chồng không quan tâm nhau nữa. Tháng 5 năm 2018 ông S cầm đơn ly hôn về đưa cho bà V ký, bà V không ký mà xé ra thì ông S to tiếng chửi bới, đe dọa bà V. Nay ông S có đơn xin ly hôn bà V, bà V xác định mâu thuẫn trầm trọng, kéo dài, sống ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn nhưng do tuổi tác hai bên đã cao, mặt khác đứa con thứ hai còn chưa xây dựng gia đình, các cháu nội còn nhỏ dại cần sự giúp đỡ của ông bà nên bà V không đồng ý ly hôn mà vợ chồng sống ly thân như hiện tại để giúp đỡ cho con cháu.

Về con chung: Bà V và ông S có hai con chung, con lớn đã chết, con  thứ hai là Nguyễn Tiến D, sinh ngày 02/9/1987 đã trưởng thành, tự lập về kinh tế như ông S trình bày là đúng. Nếu ly hôn bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết về nuôi con.

Về tài sản chung: Tại phiên hòa giải hôm nay ông S rút yêu cầu phân chia tài sản chung để vợ chồng tự thỏa thuận, bà V đồng ý và không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết về tài sản.

* Tại biên bản xác minh ngày 29 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình với chính quyền địa phương,  ông Lê Công N là tổ trưởng tổ dân phố số 17, phường T, Thành phố T, cung cấp:

Ông S và bà V có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đ, quá trình chung sống địa phương được biết ông bà có mâu thuẫn từ lâu, hiện ông bà không ăn chung với nhau, khoảng 3 năm nay ông S sang ở cùng con trai ở H, thỉnh thoảng ông có về địa phương nhưng lại mâu thuẫn với bà V nên ông lại đi, mâu thuẫn giữa hai ông bà đã được chính quyền địa phương khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, hai ông bà đã sống ly thân một thời gian dài, nay ông S xin ly hôn bà V đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ông bà có hai con chung, 01 người đã mất, 01 người đã trưởng thành;

Ông bà không vay nợ tổ chức đoàn thể, cá nhân nào tại địa phương.

* Phát biểu của Kiểm sát viên:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì.

Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình xử cho ông S ly hôn bà V

Về con chung: Ông S, bà V có 02 con chung, con lớn đã chết, con thứ hai đã trưởng thành, không đặt ra giải quyết.

Về tài sản: Ông S, bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra.

Về án phí: Nguyên đơn được miễn án phí nên không phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Ngọc S khởi kiện xin ly hôn với bà Nguyễn Thị V hiện đang cư trú trên địa bàn thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, do đó theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc S có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3  Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc S và bị đơn bà Nguyễn Thị V

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Ngọc S và bà Nguyễn Thị V được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo bà V do ông S thiếu quan tâm đên gia đình, vợ con, không nhất trí giải quyết được một số việc, không ai nói chuyện với ai đến năm 2010, hai ông bà sống ly thân mặc dù sống chung một nhà nhưng ăn riêng ngủ riêng. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, gia đình và con cái đã hòa giải nhưng tinh cảm vợ chồng không được cải thiện mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Đến tháng 5/2016, ông S sang nhà con trai bên phường H ở đến nay, vợ chồng không quan tâm gì đến nhau nữa, bà V thừa nhận vợ chồng mâu thuẫn, không còn tình cảm với nhau, song bà không đồng ý ly hôn vì con thứ hai chưa lấy vợ, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, ông S vẫn giữ quan điểm xin được ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng ông S, bà V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên xö cho ông Nguyễn Ngọc S được ly hôn bà Nguyễn Thị V là phù hợp với Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Ông S và bà V có hai con chung là Nguyễn Anh T, sinh ngày 06/11/1981 và Nguyễn Tiến D, sinh ngày 02/9/1987(con Tuấn đã chết do tai nạn); con Dũng đã trưởng thành, có việc làm thu nhập ổn định nên không đặt ra giải quyết.

[4] .Về tài sản: Ông S, bà V tự giải quyết với nhau về tài sản, vợ chồng không vay nợ chung của ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản nên không đặt ra.

[5].Về án phí: Ông Nguyễn Ngọc S được miễn nộp án phí nên không đặt ra.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;  khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Xử cho ly hôn giữa ông Nguyễn Ngọc S và bà Nguyễn Thị V.

2. Về con chung:

Không đặt ra giải quyết.

3. Về tài sản:

Không đặt ra giải quyết.

4.Về án phí: Ông Nguyễn Ngọc S được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc S và bị đơn bà Nguyễn Thị V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về