Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 13/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 333/2018/TLST-HNGĐ, ngày 19 tháng 12 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXX-ST ngày 21 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1973;

Địa chỉ: Số nhà 08, ngõ 497, đường N, phố Tr, phường B, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

Bị đơn: Anh Đỗ Văn D, sinh năm 1975;

Nơi ĐKHKTT: Thôn Ng, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình;

Nơi công tác: Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại và dịch vụ P;

Địa chỉ: Số 43/78/13, phường 4, quận T, thành phố Hồ Chí Minh;

Nơi ở hiện nay: Số nhà 25, đường D12, phường T, quận T, khu công nghiệp TB, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai chị Nguyễn Thị Thu H trình bày: Chị kết hôn với anh Đỗ Văn D ngày 02/3/2001, có được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống ở phố Tr, phường B, thành phố Ninh Bình, cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hòa hợp luôn xảy ra bất đồng quan điểm sống, anh D thường xuyên đi làm ăn xa không quan tâm đến gia đình, vợ con. Từ tháng 7 năm 2017 đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai, không còn quan hệ tình cảm vợ chồng với nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn D. Do anh D đang công tác tại Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại và dịch vụ P; Địa chỉ: Số 43/78/13, phường 4, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; Hiện đang tạm trú tại: Số nhà 25, đường D12, phường T, quận T, khu công nghiệp TB, thành phố Hồ Chí Minh nên để tạo điều kiện thuận lợi cho chị, chị và anh D đã có biên bản thỏa thuận lựa chọn Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình giải quyết vụ án ly hôn giữa chị và anh D.

Về con chung: Chị và anh D có một con chung là cháu Đỗ Thành D, sinh ngày 16/11/2002, hiện nay cháu D đang ở với chị. Khi ly hôn chị và anh D đã thỏa thuận chị chăm sóc nuôi dưỡng cháu D, chị không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con vì chị đủ điều kiện kinh tế để chăm sóc nuôi dưỡng cháu.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị và anh D tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 22/12/2018 và các đơn đề nghị anh Đỗ Văn D trình bày: Anh kết hôn với chị H ngày 02/03/2001, có được tự do tìm hiểu, khi cưới có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thành phố Ninh Bình, cuộc sống vợ chồng H thuận hạnh phúc được khoảng 5 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình giữa 2 người không H hợp, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Từ năm 2005 vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, không còn tình cảm với nhau, từ năm 2010 thì vợ chồng sống ly thân cho đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể chung sống với nhau được nữa. Nay chị H làm đơn xin ly hôn anh đồng ý đề nghị Tòa án xem xét giải quyết để vợ chồng anh được ly hôn giải phóng cho nhau.

Về con chung: Vợ chồng anh có một con chung là cháu Đỗ Thành D, sinh ngày 16/11/2002, hiện nay cháu D đang ở với chị H. Anh nhất trí để chị H chăm sóc nuôi dưỡng cháu D, về mức cấp dưỡng cho con anh và chị H tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ chung: Anh và chị H tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết.

Do công việc ở Công ty bận, nên anh không thể về Tòa án làm việc được, anh làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình giải quyết cho anh được vắng mặt trong các lần Tòa án báo gọi, hòa giải cũng như khi Tòa án xét xử vụ án giữa anh và chị H.

Tại phiên toà chị Nguyễn Thị Thu H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn D; Về con chung chị xin được chăm sóc nuôi dưỡng cháu Đỗ Thành D; Về mức cấp dưỡng cho con: Chị và anh D tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết. Tại đơn đề nghị ngày 28/02/2019 anh Đỗ Văn D đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H; Về con chung: Anh nhất trí để chị H chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đỗ Thành D; Về cấp dưỡng cho con anh và chị H tự thỏa thuận anh không đề nghị tòa giải quyết. Do công việc bận anh không về được, nên anh đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình cho anh được vắng mặt tại phiên tòa ngày 13/3/2019 .

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về địa chỉ nơi cư trú, thẩm quyền giải quyết và việc tham gia tố tụng: Tại biên bản thỏa thuận lựa chọn Tòa án giải quyết ngày 04/12/2018 anh D chị H trình bày anh D có hộ khẩu thường trú tại thôn Ng, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, hiện nay anh D đang công tác tại Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại và dịch vụ P; Địa chỉ: Số 43/78/13, phường 4, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ở hiện nay: Số nhà 25, đường D12, phường T, quận T, khu công nghiệp TB, thành phố Hồ Chí Minh, đây là nơi anh D thường xuyên sinh sống, làm việc. Để thuận tiện cho việc giải quyết vụ án ly hôn anh D, chị H đã có đơn lựa chọn Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình giải quyết, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình. Quá trình giải quyết vụ án do công việc bận ở xa, anh D có đơn đề nghị Tòa án giải quyết xét xử vắng mặt, anh D đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy Tòa án tiến hành giải quyết và xét xử vụ án vắng mặt anh D theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thu H và anh Đỗ Văn D là tự nguyện, hợp pháp đúng theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Năm 2010 thì vợ chồng sống ly thân, không còn quan hệ tình cảm với nhau, mỗi người sống mỗi nơi không có hạnh phúc, bản thân anh D chị H cũng xác định tình cảm vợ chồng thực sự không còn, không thể chung sống với nhau được nữa và đều đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn. Tòa án xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị H, cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn anh Đỗ Văn D là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Chị H và anh D có một con chung là cháu Đỗ Thành D, sinh ngày 16/11/2002. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay cháu D đang ở với chị H được chị H chăm sóc nuôi dưỡng tốt, anh D đi làm ăn xa không có điều kiện chăm sóc cho cháu, chị H, anh D thỏa thuận để cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng cháu D, nguyện vọng của cháu D muốn được ở với mẹ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu D, nên giao cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu D cho đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Về mức cấp dưỡng cho con: Chị H và anh D tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H, anh D thống nhất tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết, do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

- Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đều đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Về quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H về việc “Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Đỗ Văn D; Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thu H với anh Đỗ Văn D; Về con chung: Giao cháu Đỗ Thành D, sinh ngày 16/11/2002 cho chị Nguyễn Thị Thu H rực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp án phí ly hôn là 300.000đồng, được trừ vào số tiền 300.000đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với anh Đỗ Văn D.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H ly hôn anh Đỗ Văn D.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Thành D, sinh ngày 16/11/2002 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, kể từ tháng 3 năm 2019 cho đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Về mức cấp dưỡng cho con: Chị H, anh D tự thỏa thuận không đề nghị giải quyết. Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở và có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Đỗ Văn D đều thống nhất tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số 0000998 ngày 18/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

Án xử sơ thẩm công khai chị Nguyễn Thị Thu H  có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 13/3/2019; anh Đỗ Văn D vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6 Điều 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 13/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về