Bản án 03/2018/HSST ngày 05/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 03/2018/HSST NGÀY 05/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 01 năm 2018, tại Hội trường UBND xã P, thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 463/2017/HSST ngày 30/11/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 510/2017/QĐXXST-HS ngày 25/12/2017 đối với bị cáo

Họ và tên: Dương Văn C, tên gọi khác: không; sinh ngày: 12/3/1990; nơi ĐKHKTT: xóm 10, xã P, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; dân tộc: kinh; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp: không; con ông Dương Văn T và bà Nguyễn Thị T1; chưa có vợ, con; tiền án:

Bản án số 30/2012/HSST, ngày 29/5/2012, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bản án số 291/2012/HSST, ngày 22/8/2012, Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 30 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tổng hợp 12 tháng tù tại bản án số 30/2012/HSST, ngày 29/5/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 42 tháng tù;

Bản án số 212/2012/HSPT, ngày 27/11/2012 Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 18 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; tổng hợp với hình phạt 42 tháng tù của bản án số 291/2012/HSST, ngày 22/8/2012 của Tòa án nhân dân thành phố T, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 60 tháng tù;

Tiền sự: Ngày 06/10/2011, bị Công an thành phố T, tỉnh Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác;

Bị tạm giam từ ngày 03/10/2017 đến nay (Có mặt tại phiên tòa)

Bị hại: Bà Vũ Thị D, sinh năm 1955 ( vắng mặt)

Trú tại: Tổ 20, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

Người có quyền lợi liên quan: Ông Dương Văn T, sinh năm 1955 (có mặt) Trú tại: Xóm 10, xã P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Văn C là đối tượng không nghề nghiệp, nghiện chất ma túy. Khoảng 04h30 ngày 01/8/2017, C một mình điều khiển xe môtô nhãn hiệu Dream BKS: 20F7– 5290 đến khu vực nhà bà Vũ Thị Dung, sinh năm 1955, trú tại: tổ 20, phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên. C nhìn thấy có nhiều than củ chất đống cạnh nhà bà Dung, quan sát thấy không có ai trông coi, C nảy sinh ý định trộm cắp than của bà Dung bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. C dựng xe cách đống than 20 m rồi đi bộ đến vị trí đống than củ, C dùng hai tay bê được 05 cục than đến vị trí xe môtô và tiếp tục quay lại đống than dỡ được 03 cục than củ ra khỏi đống than thì bị phát hiện, C bỏ chạy và để lại toàn bộ số than vừa trộm cắp được cùng chiếc xe môtô gắn BKS: 20F7– 5290, ba bao tải dứa buộc bằng 01 đoạn dây chun màu đen.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 311/HĐĐGTS ngày 30/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 8 cục than, loại than củ có tổng trọng lượng là 150 kg, giá trị 300.000đ.

Tại bản cáo trạng số 468/ KSĐT-KT, ngày 27/11/2017 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Dương Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Dương Văn C khai nhận toàn bộ hành vi đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 468/KSĐT-KT, ngày 27/11/2017 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999;

Xử phạt bị cáo Dương Văn C từ 12 đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự không xem xét; trả lại chiếc xe mô tô cho ông Dương Văn Thủy; tịch thu, tiêu hủy những vật chứng khác.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, trong lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Dương Văn C đều thừa nhận hành vi trộm cắp 08 cục than tại bãi than của bà Vũ Thị Dung tại tổ 20, phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên, khi bị phát hiện đã bỏ lại tài sản là 08 cục than củ và chiếc xe mô tô để chạy thoát. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 311/HĐĐGTS ngày 30/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 8 cục than, loại than củ có tổng trọng lượng là 150 kg, giá trị 300.000đ.

Mặc dù tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo đã bị kết án nhiều lần về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố Dương Văn C về tội “ Trộm cắp tài sản” theo bản cáo trạng số 468/KSĐT-KT, ngày 27/11/2017 là có căn cứ. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Hành vi của bị cáo xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại theo quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ Luật hình sự năm 1999.

Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe và phòng ngừa chung. Mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, biên bản xác minh và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Vũ Thị D đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét. 

Về vật chứng của vụ án: Cần áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy 03 (ba) bao tải dứa màu trắng được buộc bằng một đoạn dây chun màu đen. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream, gắn BKS 20F7-5290, số khung: VTTDCG 053TT 000552, số máy: LC 150FMG 00003734. Theo phiếu tra cứu xe máy vật chứng, không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ông Dương Văn T là bố bị cáo Dương Văn C khai chiếc xe trên ông T mua của 01 người đàn ông không quen biết vào khoảng đầu năm 2017 với giá 1.000.000 đồng, khi mua không làm giấy tờ mua bán. Ngày 23/10/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã có thông báo số 3031/CSĐT truy tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả và chưa hết thời hạn thông báo theo quy định tại Điều 228 Bộ luật dân sự. Bị cáo Dương Văn C sử dụng chiếc xe vào việc trôm cắp tài sản, ông T không biết, cần trả lại cho ông Dương Văn T khi hết thời hạn thông báo tìm kiếm chủ sở hữu là 12 tháng kể từ ngày thông báo 23/10/2017 mà không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận. Đối với chiếc biển kiểm soát 20F7-5290 kèm theo xe, nhưng không phải của chiếc xe nêu trên, hiện không xác định được chiếc xe mang biển kiểm soát này, cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46, Điều 33, Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

1/ Tuyên bố : bị cáo Dương Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Xử phạt Dương Văn C 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam bị cáo 03/10/2017.

- Quyết định tạm giam bị cáo Dương Văn C 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét.

4/ Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 03 (ba) bao tải dứa màu trắng được buộc bằng một đoạn dây chun màu đen, 01 chiếc biển kiểm soát 20F7-5290;

- Trả lại ông Dương Văn T một xe mô tô nhãn hiệu Dream, số khung: VTTDCG 053TT 000552, số máy: LC 150FMG 00003734 khi hết thời hạn thông báo tìm kiếm chủ sở hữu là 12 tháng kể từ ngày thông báo 23/10/2017 mà không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận. (tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên ngày 04/12/2017).

5/ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Dương Văn C chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. 

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

508
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HSST ngày 05/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về