Bản án 03/2018/DS-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH  ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 03/2018/DS-ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ MUA BÁN TÀI SẢN 

Ngày 28 tháng 3 năm 2018 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Krông Ana xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 07/2018/TLST - DS ngày 08 tháng 01 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 02 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty N

Địa chỉ: Số X, đường H, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Ngọc S, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Số X, đường H, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Giấy ủy quyền ngày 06/01/2018), có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Bà H’B, sinh năm 1970

Địa chỉ : Buôn D, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 26/12/2017 và quá trình tố tụng tại Tòa án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hà Ngọc S trình bày:

Ngày 15/6/2017 Công ty N (sau đây viết tắt là Công ty) bán cho bà H’B 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JANUS màu xám, số máy 028398, số khung 028389, số BH 2310, giá bán 33.500.000đ. Bà H’B đã trả Công ty 13.500.000đ, còn nợ công ty 20.000.000đ. Bà H’B có lắp thêm một số phụ kiện giá 1.260.000đ, kẹp biển số 130.000đ, mua bảo hiểm 1 năm cho xe máy 80.000đ. Tổng số tiền bà H’B nợ Công ty 21.470.000đ. Hai bên thỏa thuận thời hạn trả tiền vào ngày 25/6/2017 nếu sai hẹn phải trả lãi với lãi suất 2,75% tháng, đến ngày 05/7/2017 bà H’ B đã trả Công ty 8.000.000đ. Như vậy bà H’B còn nợ lại công ty 13.470.000đ. Công ty yêu cầu Tòa án buộc bà H’B phải trả công ty số tiền 13.470.000đ  và về tiền lãi yêu cầu bà H’B phải trả với suất 1%/tháng trên số tiền gốc 13.470.000đ còn nợ (từ ngày 05/7/2017 đến ngày 18/01/2018) tính tròn 07 tháng là 943.000đ, ngoài ra công ty không yêu cầu gì thêm.

Quá trình tố tụng tại Tòa án bị đơn bà H’B trình bày tại bản tự khai ngày 17/01/2018 như sau: Bà có mua của Công ty N 01 chiếc xe mô tô hiệu JANUS với giá bán 33.500.000đ. Bà đã trả Công ty 13.500.000đ, còn nợ 20.000.000đ. Đến ngày  05/7/2017  bà  trả  Công  ty  8.000.000đ.  Bà  xác  định  còn  nợ  công  t 13.470.000đ, vì gia đình gặp nhiều khó khăn, hẹn trả nợ vào tháng 3 và lấy giấy tờ xe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà H’B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền còn nợ do bị đơn mua bán xe mô tô của nguyên đơn, đây là tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản, quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn cú trú tại buôn D, xã E , huyện K, tỉnh Đăk Lăk, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk;

[3] Về yêu cầu khởi kiện: Nguyên đơn Công ty N khởi kiện yêu cầu bị đơn H’B phải thanh toán số tiền còn nợ 13.470.000đ  và tiền lãi là 943.000đ  và xuất trình giấy nhận nợ gốc, có nội dung vào ngày 15/6/2017 Công ty bán cho bà H’ B chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JANUS màu xám, số máy 028398, số khung 028389, số BH 2310 với giá bán 33.500.000đ. Ngoài ra, bà H’B có lắp thêm một số phụ kiện giá 1.260.000đ, kẹp biển số 130.000đ, mua bảo hiểm 1 năm cho xe máy 80.000đ, khi mua đã thanh toán được số tiền 13.500.000đ, bà H’B còn nợ Công ty 21.470.000đ, hạn trả nợ là ngày 25/6/2017. Đến ngày 05/7/2017, bà H’B trả  Công ty số tiền  8.000.000đ.  Như  vậy, bà H’B còn nợ ông  ty số  tiền 13.470.000đ. Bị đơn bà H’B thừa nhận còn nợ công ty số tiền 13.470.000đ, quá thời hạn trả nợ theo thỏa thuận ngày 25/6/2017 bà H’B chưa trả hết nợ cho công ty là vi phạm nghĩa vụ trả trả tiền của người mua quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự 2015. Công ty N khởi kiện yêu cầu bà H’B phải thanh toán số tiền gốc còn nợ 13.470.000đ là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4] Về yêu cầu tiền lãi: Trong giấy nhận nợ các bên có thỏa thuận nếu bên mua vi phạm thời hạn trả nợ phải chịu lãi suất 2,75% tháng. Tuy nhiên, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán tiền lãi với lãi suất 1%/tháng kể từ ngày vi phạm thời hạn trả nợ ngày 06/7/2017 đến ngày 18/01/2018 (làm tròn 07 tháng) là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 440 và Điều 357 BLDS 2015, nên cần chấp nhận. số tiền lãi bị đơn phải trả nguyên đơn là [13.470.000đ x 1% x 07 tháng] = 943.000đ.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, căn cứ vào khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị đơn bà H’B phải chịu án phí DSST là 720.000đ.

Nguyên đơn không phải chịu án phí, hoàn trả cho nguyên đơn 336.500đ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 430, 440 của Bộ luật dân sự 2015; Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty N Buộc H’ B phải trả cho Công ty N số tiền 14.413.000đ (mười bốn triệu bốn trăm mười ba nghìn đồng) trong đó: Nợ gốc là 13.470.000đ và tiền lãi là 943.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2/ Về án phí: Buộc bà H’B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 720.000đ   (by trăm hai mươi nghìn đồng).

Hoàn trả cho Công ty N số tiền tạm ứng án phí 336.500đ đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, theo biên số: 0004171 ngày 04 tháng 01 năm 2018.

Nguyên đơn có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được  thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/DS-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

Số hiệu:03/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về