TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIANG THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 29/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 29 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2021/TLST-HS ngày 28/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HS ngày 15/3/2021 đối với bị cáo:
Tiên O, sinh năm 1996; nơi sinh: GT, Kiên Giang.
Nơi cư trú: ấp T, xã P, huyện G, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở hiện nay: ấp T, xã P, huyện G, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn):
02/12; dân tộc: khơme; giới tính: nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tiên Văn H và bà Quách Thị D; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không có án tích và bị xử phạt vi phạm hành chính; ngày 10/12/2020 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Duy Kh, Trợ giúp viên pháp lý; công tác tại: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Kiên Giang (có mặt).
- Bị hại: Anh Tiên Bô R, sinh năm 1982; nơi cư trú: ấp T, xã P, huyện G, tỉnh Kiên Giang (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Thị S, sinh năm 1961. Nơi cư trú: ấp T, xã P, huyện G, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Trường Th, Luật sư thực hiện việc trợ giúp pháp lý (có mặt).
- Người tham gia tố tụng khác:
+ Người làm chứng:
1. Chị Thị S (có mặt).
2. Chị Thị Th (có mặt).
+ Người phiên dịch: Ông Danh Q. Công tác tại: Trường tiểu học xã P, huyện G, tỉnh Kiên Giang (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 05/10/2020; sau khi uống rượu xong tại địa bàn khu phố L, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang bị cáo Tiên O và bị hại Tiên Bô R tự mình điều khiển xe máy về nhà tại ấp T, xã P, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Khi về gần đến nhà thì bị cáo O tự té ngã xe, làm cho kiếng chiếu hậu của xe văng ra ngoài. Bị cáo O nhặt lấy kiếng xe và tiếp tục lên xe chạy về đến nhà (nhà mẹ vợ là bà Thị S). Trong lúc bị cáo O đang gắn lại kiếng xe trong nhà thì bị hại Tiên Bô R đi tới và có lời lẽ phàn nàn trước đây bị cáo Tiên O từng mượn xe làm trầy xước áo xe và phải bồi thường từ 6 đến 7 triệu đồng. Bị cáo Tiên O nghe vậy bực tức ném kiếng xe xuống đất hướng đến bị hại Tiên Bô R; bị hại Tiên Bô R xông đến đánh bị cáo Tiên O bằng tay và bị cáo Tiên O đánh lại; được bà Thị S, chị Thị S và chị Thị Th can ra. Khi bị hại Tiên Bô R cùng vợ là chị Thị Th đi về nhà thì bị cáo Tiên O lập tức đi vào nhà bếp lấy cây dao thuộc quyền sở hữu của bà Thị S chạy đến hàng ba nhà bị hại Tiên Bô R và khi bị hại Tiên Bô R quay người trở lại hướng đối diện bị cáo Tiên O thì bị cáo Tiên O tay phải cầm dao liền chém một nhát theo hướng từ trên xuống và từ phải sang trái trúng vào đầu bị hại Tiên Bô R. Bị hại Tiên Bô R lập tức khống chế đè bị cáo Tiên O xuống nền gạch và giật lấy cây dao; được mọi người đến can ra bị cáo Tiên O bỏ chạy về nhà tại ấp T, xã P; còn bị hại Tiên Bô R được gia đình đưa đến bệnh viện K điều trị thương tích.
Bị hại Tiên Bô R điều trị thương tích tại Trung tâm Y tế huyện K, tỉnh Kiên Giang từ ngày 05/10/2020 đến ngày 13/10/2020 thì xuất viện.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 628/TgT ngày 04/12/2020 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Kiên Giang, kết luận đối với bị hại Tiên Bô R:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Sẹo phần mềm vùng thái dương-đỉnh trái.
- Nứt (mẻ) bản sọ ngoài vùng thái dương-đỉnh trái.
- Kết quả đo điện não: Hoạt động nền Alpha, Beta không đều hai bán cầu-Ghi nhận xuất hiện hoạt động sóng nhọn nhanh và sóng Delta trên EEG.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 17% (Mười bảy phần trăm).
3. Vật gây thương tích: Vật sắc.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về kết luận giám định thương tích của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Kiên Giang.
Về vật chứng vụ án thu giữ:
- 01 (một) cây dao dài 38cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 26cm, cán dao bằng gỗ dài 12cm, dao đã qua sử dụng bị rỉ sét và dính nhiều bùn đất.
Vật chứng hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng - Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Tiên O và bị hại Tiên Bô R tự nguyện thỏa thuận bồi thường toàn bộ thiệt hại là 40.000.000 đồng và đã giao nhận bồi thường đầy đủ.
Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKSGT ngày 27/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang; Truy tố bị cáo Tiên O về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này).
Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
… đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang tiếp tục giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Tiên O với mức án từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.
- Ghi nhận việc bị cáo Tiên O và bị hại Tiên Bô R tự nguyện thỏa thuận và đồng ý bồi thường toàn bộ thiệt hại số tiền 40.000.000 đồng.
- Về vật chứng vụ án đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tiên O, do bị cáo là dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn.
Quan điểm của trợ giúp viên pháp lý ông Trần Duy Kh - bào chữa cho bị cáo Tiên O tranh luận cho rằng: Trước hết là bị cáo đã có lời xin lỗi đến bị hại và được bị hại chấp nhận tha thứ. Về tội trạng của bị cáo là hoàn toàn thống nhất theo bản cáo trạng và việc luận tội của Kiểm sát viên về tội danh và áp dụng 03 tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, việc Kiểm sát viên luận tội và đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù có thời hạn là không cần thiết. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và xem xét do bị cáo là dân tộc thiểu số; trình độ thấp, lạc hậu và là lao động chính trong gia đình; nhân thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; quá trình điều tra bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục toàn bộ thiệt hại; có một phần lỗi của bị hại do đánh bị cáo trước và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo. Việc cho bị cáo hưởng án treo không làm ảnh hưởng đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm; đồng thời cũng sẽ có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội và còn giảm bới gánh nặng cho gia đình bị cáo, do bị cáo đang là lao động chính trong gia đình.
Bị cáo Tiên O không có ý kiến tranh luận bổ sung.
Quan điểm của người thực hiện việc trợ giúp pháp lý Luật sư Nguyễn Trường Th - bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Tiên Bô R tranh luận cho rằng: Thống nhất với quan điểm của người bào chữa cho bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo Tiên O được hưởng án treo.
Bị hại Tiên Bô R có ý kiến là yêu cầu khởi tố và do Tòa án xét xử theo pháp luật đối với bị cáo Tiên O; đồng thời, xin cho bị cáo Tiên O được hưởng mức án nhẹ.
Quan điểm tranh luận của Kiểm sát viên: Việc đề nghị mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù có thời hạn đối với bị cáo Tiên O là đã xem xét, chiếu cố và khoan hồng đối với bị cáo, nên giữ nguyên quan điểm đề nghị nói trên.
Trợ giúp viên pháp lý ông Trần Duy Kh giữ nguyên quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
Người thực hiện việc trợ giúp pháp lý Luật sư Nguyễn Trường Th giữ nguyên quan điểm của mình và không có tranh luận thêm.
Bị cáo Tiên O có lời nói sau cùng: xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ vì bị cáo đã biết tội lỗi và cam kết không còn phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra - Công an huyện Giang Thành, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Giang Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo; bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại và người có liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Việc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Thị S vắng mặt tại phiên tòa không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Bị cáo Tiên O hoàn toàn nhận thức được hành vi dùng dao, lưỡi bằng kim loại tấn công vào cơ thể người khác dễ gây ra thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người bị tấn công. Bị cáo dùng dao sắc bén tấn công theo hướng từ trên xuống và từ phải sang trái trúng vào vùng thái dương bị hại Tiên Bô R, làm tổn thương cơ thể với tỷ lệ 17%; phù hợp với kết luận giám định pháp y về thương tích đối với bị hại Tiên Bô R; biên bản ghi lời khai và biên bản hỏi cung bị can tại Cơ quan Điều tra (Bút lục số 52,53,54,58,59,115,116,117,118, 119 và 120).
Như vậy, bị cáo Tiên O có hành vi cố ý dùng dao là vật sắc chém gây thương tích cho bị hại Tiên Bô R với tỉ lệ tổn thương cơ thể 17% nên đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự (thuộc điểm a khoản 1 Điều này).
[4] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Tiên O hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình; phù hợp với lời khai của bị cáo; bị hại; người có liên quan; người làm chứng và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Theo Kiểm sát viên luận tội và đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 để kết tội và xử lý các vấn đề có liên quan đối với bị cáo Tiên O là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng chính sách pháp luật.
[5] Xét về tình tiết định khung hình phạt:
Hành vi của bị cáo Tiên O vi phạm tình tiết định khung hình phạt nên phải xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Bị cáo Tiên O có nhân thân tốt; thể hiện không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tự nguyện thỏa thuận bồi thường toàn bộ thiệt hại. Tại phiên tòa bị hại Tiên Bô R xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo O được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, xét thấy bị cáo Tiên O thực hiện hành vi nghiêm trọng; có khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm; hành vi phạm tội của bị cáo đã để lại hậu quả cho người bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể 17%. Hành vi cố ý sử dụng rượu bia làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để phạm tội là đã vi phạm Pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia. Hành vi phạm tội của bị cáo đã làm mất an ninh trật tự tại địa phương và còn gây ra thiệt hại tài sản của người khác (cây dao). Do đó, cần xử phạt bị cáo nghiêm minh; cách ly ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, khi mãn hạn tù trở về từ bỏ con đường phạm tội. Qua thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử đã cân nhắc áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo O theo mức thấp nhất mà Kiểm sát viên luận tội đề nghị mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong đấu tranh phòng chống tội phạm; bác quan điểm của người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại về đề nghị Hội đồng xét xử xử cho bị cáo O được hưởng án treo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Cần ghi nhận việc bị cáo Tiên O và bị hại Tiên Bô R tự nguyện thỏa thuận bồi thường toàn bộ thiệt hại, bao gồm chi phí điều trị thương tích và các khoản chi phí khác với tổng số tiền 40.000.000 đồng và đã giao nhận xong.
[8] Về xử lý vật chứng: Ghi nhận việc bà Thị S đề nghị không nhận lại cây dao do bị cáo O dùng vào việc phạm tội và xét thấy cây dao là vật không có giá trị, nên tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tiên O theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Tuyên bố: Bị cáo Tiên O phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt Tiên O 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày vào chấp hành hình phạt tù.
2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo Tiên O và bị hại Tiên Bô R tự nguyện thỏa thuận bồi thường toàn bộ thiệt hại, bao gồm chi phí điều trị thương tích và các khoản chi phí khác với tổng số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) và đã giao nhận xong.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy vật chứng là 01 (một) cây dao dài 38cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 26cm, cán dao bằng gỗ dài 12cm, dao đã qua sử dụng bị rỉ sét và dính nhiều bùn đất.
Vật chứng hiện đang bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang.
4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tiên O.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Tiên O và bị hại Tiên Bô R có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp trên xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Thị S vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 02/2021/HS-ST ngày 29/03/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 02/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giang Thành - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về