Bản án 02/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 53/2020/TLST- HS ngày 24 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn S, sinh ngày 13 tháng 6 năm 1959 tại Hải Phòng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 72B đường B, phường M, quận Ngô Q, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Số 315 đường N, phường V, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T (đã chết) và bà Lê Thị B; có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn); có 02 con: con lớn sinh năm 1983 và con nhỏ sinh năm 1996; tiền án: Bị can có 04 tiền án (Bị can đã thi hành xong và đã được xóa án tích), cụ thể:

- Bản án số 134/HSST ngày 24/05/1980 Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án số 114/HSST ngày 15/05/1985 Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 02 triệu đồng).

- Bản án số 75/HSPT ngày 20/05/1986 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 02 triệu đồng).

- Bản án số 32/HSST ngày 08/04/2009 Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền sự: Không Bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Tạm giữ từ ngày 08/06/2020 đến ngày 10/06/2020 chuyển Tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng. Ngày 21/10/2020, bị can được áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Văn H. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Ngọc V. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 07 giờ 00 phút ngày 08/06/2020, Phạm Văn S điều khiển xe mô tô SYM màu đen, BKS 16P2-1606 từ nhà đến khu vực đường tàu T, quận L, thành phố Hải Phòng để tìm mua ma túy. Tại đây, S gặp và hỏi mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) được 16 túi nilon màu trắng bên trong có chứa ma túy với số tiền 630.000 đồng. Sau đó, S điều khiển xe mô tô đi về nhà. Đến khoảng 07 giờ 45 phút cùng ngày, khi S đi đến khu vực trước cửa nhà số 176 đường C, phường Đ 1, quận H, thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng thuộc Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy số 1, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển phối hợp cùng Đội cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an quận Hải An kiểm tra, phát hiện S đang cất giấu 16 gói ma túy trên trong 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng ở bên trong túi quần phía trước bên trái của S. Tổ công tác đã đưa S về trụ sở Công an phường Đông Hải 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 16 túi nilon kích thước 1,5x2cm bên trong chứa chất bột màu trắng (S khai nhận là Heroine); 01 xe mô tô SYM màu đen BKS 16P2-1606; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 căn cước công dân số 031059001862.

Tại Kết luận giám định số 337/KLGĐ-MT ngày 08/06/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Văn S: “là ma túy có khối lượng 1,56 gam, là loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 21 tháng 12 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 27 tháng đến 33 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định và không có tài sản riêng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy bì thư niêm phong số 337/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn S vắng mặt, song tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa bị cáo vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vì lý do sức khỏe, Hội đồng xét xử thấy sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo vắng mặt, nhưng căn cứ vào lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Hội đồng xét xử thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Hồi 07 giờ 45 phút ngày 08/06/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 176 đường C, phường Đ 1, quận H, thành phố Hải Phòng, Phạm Văn S có hành vi cất giấu trái phép 1,56 gam theo kết luận giám định là loại Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Heroine là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội, nằm trong Danh mục I, STT 9 ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ. Việc cố ý cất giữ chất ma túy của bị cáo không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy; bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ năng lực nhận thức và năng lực hành vi nên hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xét xử nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã 04 lần bị Tòa án kết án, trong đó có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặc dù các tiền án này đều được xóa án tích, nhưng đã cho thấy nhân thân của bị cáo rất xấu, bản thân lại là đối tượng nghiện chất ma túy nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian đủ để bị cáo có điều kiện cai nghiện, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Heroine là chất ma túy cấm lưu hành; vì vậy, cần tịch thu, tiêu hủy bì thư niêm phong bên trong có chứa chất heroine, là phần còn lại sau giám định.

[10] Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi và có đơn đề nghi miễn án phí nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM gắn BKS 16P2-1606 S sử dụng để đi mua ma túy, S khai mượn chiếc xe trên của một người bạn xã hội tên M nhà ở quận L, thành phố Hải Phòng (không rõ địa chỉ, lai lịch cụ thể). Quá trình điều tra xác định BKS 16P2-1606 là giả và chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[12] Đối với 01 căn cước công dân số 031059001862, ngày 05/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hải An đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Phạm Văn S nên Hội đồng xét xử không phải xem xét, giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Phạm Văn S 27 (hai mươi bảy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án (trừ cho bị cáo 136 (một trăm ba mươi sáu) ngày vì đã bị giam giữ).

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Phạm Văn S.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư có dấu niêm phong số 337/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng).

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 và Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Văn S được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về