Bản án 02/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội giết người

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 660/2020/HSST, ngày 27 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5885/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22091/2020/HSST-QĐ ngày 14/12/2020 đối với bị cáo:

Bị cáo A, sinh năm 1985 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Thường trú: đường B, Khu phố B1, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông M (chết) và bà N; hoàn cảnh gia đình: Có vợ (không đăng ký kết hôn) và 04 con (lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không:

Nhân thân:

- Ngày 24/11/2003, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội "Cướp giật tài sản" (Bản án số 2124/HSST):

- Ngày 16/5/2008, bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (Bản án số 54/2008/HSST), ngày 11/9/2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án số 54/2008/HSST (Bản án số 536/2008/HSPT) Bị cáo bị bắt giam từ ngày 10/6/2020 (Có mặt).

Bị hại:

Bà T, sinh năm 1984 Thường trú: đường DBP, Phường D1, quận E1, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà H, sinh năm 1975 Thường trú: đường HB, Phường X1, Quận Y1, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

Người bào chữa:

Bà NKL, luật sư của Văn phòng luật sư NKL thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo A (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

A và chị DT chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2011 và cư trú tại địa chỉ đường TT, phường TTT, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, cả hai làm bánh bò để bán và bỏ mối. Khoảng 11 giờ ngày 10/4/2020, A biết việc DT đã chỉ cho bà H (sinh năm 1975, là mẹ kế của DT) và chị T (sinh năm 1984, là em ruột của bà H) cách làm bánh bò và giới thiệu khách hàng của A để bán bánh. Do lo sợ bị mất khách nên A đã chửi mắng chị DT, bực tức chị DT đã bỏ đi đến nhà bà H tại số nhà đường DQH, Phường Q1, quận Gò Vấp để ở. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, A gọi điện thoại chửi bà H và cấm bà H không được bán bánh tại khu chế xuất Tân Thuận nữa. Lúc này, chị T ngồi bên cạnh bà H, biết được sự việc đã lấy điện thoại của bà H chửi A.

Khoảng 05 giờ 00 ngày 11/4/2020, chị T cùng bà H đến khu vực góc đường Số 7 và đường Huỳnh Tấn Phát, khu chế xuất Tân Thuận, phường Tân Thuận Đông, Quận 7 dọn hàng bán bánh ướt thì A điều khiển xe mô tô hiệu Noza màu đen (không rõ biển số) đến chỗ chị T bán và chửi chị T. Trong lúc lời qua tiếng lại thì A xông vào chị T, lúc này trên tay chị T đang cầm con dao Thái Lan dài 21,5cm, chị T hướng dao vào A để tự vệ. Thấy vậy, bà H và chị DT can ngăn A và chị T. Sau đó, A điều khiển xe mô tô bỏ đi, một lúc sau A điều khiển xe quay trở lại, trên tay cầm một con dao tự chế bằng kim loại màu trắng dài 80.5cm (lưỡi dao dài 54cm, bản lưỡi rộng nhất 04cm) rồi dừng lại trước xe bánh ướt của chị T, A xuống xe tay cầm dao chặt vào xe bánh ướt của chị T và đi đến chỗ chị T đang đứng. Thấy vậy bà H can A ra nhưng A vẫn tiến tới, chị T lùi lại và quay người bỏ chạy được một đoạn thì bị mất thăng bằng, loạng choạng và té ngồi xuống đường số 7, gần cột điện J07CX/T28L, A cầm dao đuổi đến và chém một nhát từ trên xuống trúng đầu chị T gây thương tích, chị T bất tỉnh. Sau khi gây án, A vứt dao tại hiện trường và tẩu thoát, chị T được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quận 7, sau đó chuyển đến Bệnh viện 115. Bà H đã đến Công an phường Tân Thuận Đông, Quận 7 để trình báo sự việc.

Ngày 10/6/2020, A đến Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 312/TgT.20 ngày 22/4/2020 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định pháp y về thương tích của T như sau:

“Vết thương vùng trán đỉnh trái gây đứt da, vỡ sọ trán đỉnh trái, rách màng cứng, chảy máu dưới màng cứng vùng trán đỉnh thái dương trái, dập não xuất huyết vùng trán đỉnh trái, chảy máu dưới nhện đã được phẫu thuật gặm bỏ một phần sọ lõm, lấy 20 gram máu tụ dưới màng cứng đông bánh, hút mô não dập, cầm máu, vá màng cứng, dẫn lưu dưới da đầu, khâu vết thương, hiện có một vết thương còn chỉ khâu kích thước 14x0,1cm tại trán đỉnh trái, hình ảnh tổn thương mô não, máu tụ trong hộp sọ trên phim chụp cắt lớp vi tính sọ não sau mổ, khuyết sọ sau mổ vào ngày 13/4/2020.

Hiện chưa có đánh giá được di chứng về thần kinh. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 53%. Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra, rất nguy hiểm đến tính mạng đương sự. Thông tư 22/2019/TT/BYT không quy định về cố tật.

Tại bản kết luận giám định bổ sung số 312.B/TgT.20 ngày 15/6/2020 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định bổ sung pháp y về thương tích của T như sau:

“Con dao bằng kim loại màu trắng, dài 80,5cm, lưỡi dao dài 54cm, mũi nhọn, bản dao rộng nhất 04 cm gây ra được thương tích ở đầu của T.

Việc chém bằng phần sóng con dao trên gây ra được thương tích như đã giám định.” Tại Bản kết luận giám định số 1031-20/KLGĐ-SV ngày 01/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định tang vật thu giữ như sau:

“Con dao dài 21,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 11,5cm, mũi nhọn, bản lưỡi chỗ rộng nhất 1,8cm, một mặt lưỡi có chữ “KIWI BRAND MADE IN THAILAND”. Cán dao bằng nhựa màu vàng, trên một mặt cán có chữ “KIWI” không dính máu.

Con dao bằng kim loại màu trắng dài 80,5cm, lưỡi dao dài 54cm, mũi nhọn, bản lưỡi rộng nhất 04cm, cán dao dạng trụ tròn, đường kính 03cm không đủ cở sở để xác định có dính máu hay không.” Vật chứng thu giữ:

- 01 đôi dép Lào màu xanh đã qua sử dụng của T:

- 01 đôi dép Lào màu xanh đã qua sử dụng của H:

- 01 nón kết màu đen đã qua sử dụng của H:

- 01 con dao dài 21,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 11,5cm, mũi nhọn, bản lưỡi chỗ rộng nhất 1,8cm, một mặt lưỡi có chữ “KIWI BRAND MADE IN THAILAND”. Cán dao bằng nhựa màu vàng, trên một mặt cán có chữ “KIWI”:

- 01 con dao bằng kim loại màu trắng dài 80,5cm, lưỡi dao dài 54cm, mũi nhọn, bản lưỡi rộng nhất 04cm, cán dao dạng trụ tròn, đường kính 03cm:

Tại Bản cáo trạng số 496/CT-VKS-P2 ngày 23/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo A về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích, đánh giá những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra của hành vi phạm tội vai trò của bị cáo trong vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo A từ 14 đến 16 năm tù.

Luật sư NKL bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Luật sư chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo nguyên nhân phạm tội là do bị cáo bức xúc vì mất mối bán bánh bò chứ không có chủ ý làm tổn thương bị hại, gia đình bị cáo khó khăn, có 04 con nhỏ nhưng bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần cho gia đình bị hại, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện ra đầu thú nên mong Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quan điểm truy tố.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Căn cứ lời khai của bị cáo, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án đã có cơ sở xác định:

Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống mà bị cáo đã có hành vi dùng dao bằng kim loại chém một nhát vào đỉnh đầu (là vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại là chị T), làm cho chị T bị thương tích với tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 53%, thương tích rất nguy hiểm đến tính mạng, thể hiện tính chất côn đồ, coi thường tính mạng của người khác, xem thường pháp luật. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhưng vì mâu thuẫn nhỏ trong xã hội mà bị cáo đã có hành vi cố ý tước đi tính mạng của bị hại, mặc dù bị hại không chết là nằm ngoài ý muốn của bị cáo, nhưng thương tật mà bị cáo gây ra cho bị hại là rất nghiêm trọng. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 65.000.000 đồng, ngoài ra mỗi tháng chu cấp 3.500.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả, bị hại đã làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã ra đầu thú nên cần xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 đôi dép Lào màu xanh đã qua sử dụng; 01 đôi dép Lào màu đen đã qua sử dụng, mã số DEP/044BB/2021; 01 cái nón kết màu đen đã qua sử dụng, NON/044BB/2021; 01 con dao Thái Lan, cán nhựa màu vàng dài 21,5cm, mã số DAO/044BB/2021; 01 cây mã tấu tự chế bằng kim loại dài 80,5cm, màu trắng bạc, mã số MA/044BB/2021, là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình điều tra, gia đình bị cáo đã bồi thường cho phía bị hại số tiền như trên, xét đây là thỏa thuận dân sự các bên đã tự nguyện thực hiện nên Hội đồng xét xử không xét. Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thêm một số tiền về chi phí mổ sọ, chi phí tập vật lý trị liệu phát sinh,…Hội đồng xét xử xét thấy đây là khoản chi phí điều trị thương tật chưa phát sinh nên không có căn cứ để buộc bị cáo bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Nên Hội đồng xét xử xét thấy cần dành cho bị hại quyền khởi kiện một vụ án dân sự khác về yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần, chi phí điều trị đối với bị cáo.

[6] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt: Bị cáo A 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/6/2020.

Dành cho bị hại T quyền khởi kiện vụ án dân sự về yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần, chi phí điều trị đối với bị cáo khi có yêu cầu.

[4] Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) đôi dép Lào màu xanh đã qua sử dụng; 01 (một) đôi dép Lào màu đen đã qua sử dụng, mã số DEP/044BB/2021:

- 01 (một) cái nón kết màu đen đã qua sử dụng, mã số NON/044BB/2021:

- 01 (một) con dao Thái Lan, cán nhựa màu vàng dài 21,5cm, mã số DAO/044BB/2021:

- 01 (một) cây mã tấu tự chế bằng kim loại dài 80,5cm, màu trắng bạc, mã số MA/044BB/2021.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2021/044 ngày 11/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh)

[5] Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

504
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội giết người

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về