TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 02/2021/HSPT NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Hôm nay ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 175/2020/HSPT ngày 01 tháng 12 năm 2020 do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Hà Hữu T, Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T, Trần Văn H đối với bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HSST ngày 29/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Xuân P, sinh năm 1990.
HKTT: Khu X, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Nguyễn Xuân Phụng, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Luận, sinh năm 1967; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là út; Vợ: Nguyễn Thị Thu Hương, sinh năm 1994, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2017.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại. (có mặt).
2. Chu Văn H, sinh năm 1988;
HKTT: Thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12;
Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Chu Văn Đại, sinh năm 1959 và bà Triệu Thị Anh, sinh năm 1959; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ hai; vợ: Lưu Thị Ly, sinh năm 1991;
có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 27/6/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại. (có mặt).
3. Hà Hữu T, sinh năm 1990;
HKTT: thôn T, xã M, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Hà Hữu Tình, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1964; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là út; có vợ: Mai Thị Hà, sinh năm 1992; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2018.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 27/6/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại. (có mặt).
4. Trịnh Văn Q, sinh năm 1980;
HKTT: thôn L, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Trịnh Văn Vạn (đã chết) và bà Nguyễn Thị Lâm, sinh năm 1960;
Gia đình có 04 anh em, bị cáo là lớn nhất; có vợ: Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1982; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2018.
5. Nguyễn Văn T, sinh năm 1994;
HKTT: thôn G, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Nguyễn Văn Vệ, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1974; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là lớn nhất; Vợ, con: Chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại. (có mặt).
6. Kiều Huy T, sinh năm 1985;
HKTT: thôn H, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 09/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Kiều Huy Lại, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị Thuấn, sinh năm 1952; Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là út; có vợ: Hoàng Thị Miền, sinh năm 1989; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2019.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại. (có mặt).
7. Trần Văn H, sinh năm 1984;
HKTT: thôn G, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Trần Văn H, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị Nhuần, sinh năm 1954; Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là út; có vợ: Nguyễn Thị Minh, sinh năm 1992; có 04 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2019.
Trong vụ án còn có 09 bị cáo khác không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 21/6/2020 Nguyễn Văn Hợp có tổ chức mời khách tới ăn cỗ mừng nhà mới tại nhà của mình ở thôn Găng, xã Đ, huyện Q. Đến khoảng 11h45’ cùng ngày, sau khi ăn xong Nguyễn Văn Đoàn và Nguyễn Văn Trường đi lên tầng 3 của nhà Hợp thì thấy một số người đang chơi bi-a bên ngoài, trong phòng bên cạnh thấy Trần Văn Thi đang cắt 04 Q vị hình tròn một mặt màu trắng, một mặt màu vàng từ vỏ bao thuốc lá Thăng Long. Khi cắt xong Thi đưa cho Đoàn 04 Q vị rồi đi có việc. Nhìn thấy dưới đất có chải sẵn một chăn màu hồng và 01 bát đĩa sứ, Đoàn và Trường rủ nhau chơi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức xóc đĩa. Ngay lúc đó Hà Hữu T và Kiều Huy T cũng lên tầng 3 cùng vào tham gia đánh bạc với Đoàn và Trường, Đoàn là người xóc cái. Một lúc sau, có Hoàng Văn Q, Nguyễn Đình Quang, Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Đỗ Trọng Hải, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Phi, Trần Văn H, Nguyễn Văn Đảm, Trần Văn Đường, Trịnh Văn Q vào cùng tham gia đánh bạc. Sau khi tiếp khách xong Hợp lên tầng 3 thì thấy mọi người đang chơi đánh bạc, Hợp không nói gì và cũng ngồi xuống cùng chơi đánh bạc. Mai Văn Cường ngồi xem đánh bạc nhưng không tham gia chơi. Các đối tượng đánh bạc đến 14h cùng ngày thì bị Công an huyện Q, tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Công an xã Đ, huyện Q bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm: Thu trên chiếu bạc số tiền 27.770.000 đồng; 01 bộ bát đĩa sứ nguyên vẹn màu trắng; 01 bát sứ bị vỡ; 01 chăn màu hồng và 04 Q vị hình tròn một mặt màu trắng, một mặt màu vàng. Ngoài ra còn thu giữ trên người các đối tượng tổng số tiền 31.500.000đ; 01 Ipad và 22 điện thoại di động các loại.
Với nội dung như trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HSST ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Bắc Ninh đã tuyên xử các bị cáo Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Hà Hữu T, Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T, Trần Văn H phạm tội Đánh bạc.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự:
+ Xử phạt Nguyễn Xuân P 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 24/6/2020.
+ Xử phạt Chu Văn H, Hà Hữu T, Trần Văn H mỗi bị cáo 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 27/6/2020.
+ Xử phạt Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T mỗi bị cáo 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 24/6/2020.
Phạt bổ sung P, H, T, Q, T, T, H, mỗi bị cáo 20.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về tội danh, hình phạt đối với 09 bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong các ngày 29, 30/10/2020; 02, 03, 04, 05/11/2020, các bị cáo Hà Hữu T, Chu Văn H, Kiều Huy T, Trần Văn H, Trịnh Văn Q, Nguyễn Xuân P, Nguyễn Văn T kháng cáo có cùng nội dung xin được hưởng án treo (riêng bị cáo H kháng cáo thêm nội dung xin giảm hình phạt bổ sung).
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình (đối với bị cáo Trần Văn H xin rút lại yêu cầu kháng cáo về hình phạt bổ sung mà chỉ đề nghị xin được hưởng án treo) và đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Trưa ngày 21/6/2020, sau khi ăn cỗ mừng nhà mới của Nguyễn Văn Hợp; các bị cáo Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Hà Hữu T, Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T, Trần Văn H và các bị cáo khác đã đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh sóc đĩa. Khi đang đánh sóc đĩa thì bị lực lượng công an bắt quả tang. Thu trên chiếu bạc số tiền 27.770.000 đồng Các bị cáo đều thừa nhận án sơ thẩm xét xử về tội Đánh bạc là không oan. Tuy nhiên đề nghị HĐXX xem xét đến nhân thân, thái độ khai báo, hoàn cảnh gia đình của các bị cáo để xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tích chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai trò, các tình tiết giảm nhẹ, cùng nhân thân của các bị cáo đã đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng chuyển thành án treo cho các bị cáo Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Hà Hữu T, Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T, Trần Văn H.
Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, chỉ xin được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tội danh: Xem xét lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của những người khác tại cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX thấy đã đủ cơ sở để kết luận: Trưa ngày 21/6/2020, tại nhà Nguyễn Văn Hợp ở thôn Găng, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh, có tổ chức ăn mừng nhà mới. Sau khi ăn cỗ xong các bị cáo Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Hà Hữu T, Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T, Trần Văn H và các đối tượng khác đã thực hiện hành vi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức xóc đĩa, với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 28.070.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS như Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người, đúng tội, không oan.
[2]. Xem xét nội dung kháng cáo của các bị cáo có nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo, HĐXX phúc thẩm thấy:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những gây mất trật tự trị an trên địa bàn mà còn trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng. Đây là một trong những tệ nạn xã hội thường là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp tài sản...mà dư luận nhân dân hiện nay đang bất bình, đặt ra yêu cầu phải đưa ra xét xử nhằm giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân.
Tuy nhiên xét thấy, các bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, vai trò của các bị cáo trong vụ án là không đáng kể, trong quá trình giải quyết vụ án luôn tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo T, Q, P, H, T đã nộp đủ số tiền phạt bổ sung và án phí sơ thẩm; bị cáo T đã nộp được 10.000.000đ tiền phạt bổ sung, bị cáo H đã tự nguyện nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo T xuất trình Huy chương kháng chiến hạng nhì của bố bị cáo; do đó các bị cáo T, Q, P, H, T, T, H được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. HĐXX phúc thẩm nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã có sự phân hóa trong quyết định hình phạt đối với các bị cáo, xong cấp sơ thẩm vẫn buộc các bị cáo phải cách ly xã hội là có phần quá nghiêm khắc bởi lẽ, trong vụ án này, các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đối chiếu với quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 thì các bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo, ngoài ra việc cho các bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ sức giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội do đó cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo P, H, T, H, Q, T, T giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với mục đích sinh lời bất chính, nên việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, HĐXX phúc thẩm không xem xét.
Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Hà Hữu T, Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T, Trần Văn H, sửa bản án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 65 Bộ luật hình sự:
+ Xử phạt Nguyễn Xuân P 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 11/01/2021.
+ Xử phạt Chu Văn H, Hà Hữu T, Trần Văn H, Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T mỗi bị cáo 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 11/01/2021.
Phạt bổ sung P, H, T, Q, T, T, H mỗi bị cáo 20.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước. Xác nhận bị cáo Kiều Huy T, Trịnh Văn Q, Nguyễn Xuân P, Chu Văn H, Hà Hữu T mỗi bị cáo đã nộp số tiền 20.200.000đ (bao gồm tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm) theo biên lai thu tiền lần lượt số 0006009 ngày 29/10/2020; số 0006051 ngày 24/12/2020; số 0006067 ngày 08/01/2021 và 0006013 ngày 02/11/2020; số 0006065 ngày 8/01/2021và 0006010 ngày 29/10/2020; số 0006064 ngày 8/01/2021 và 0006011 ngày 29/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Bắc Ninh. Xác nhận bị cáo Nguyễn Văn T đã nộp 10.000.000đ theo biên lai thu tiền số 0006016 ngày 20/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Bắc Ninh; Trần Văn H đã nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm tại biên lai thu tiền số 0006062 ngày 05/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.
Giao bị cáo Nguyễn Xuân P cho UBND phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Chu Văn H cho UBND xã P, huyện T, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Hà Hữu T cho UBND xã M, huyện N, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao các bị cáo Trịnh Văn Q, Nguyễn Văn T, Kiều Huy T, Trần Văn H cho UBND xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 02/2021/HSPT ngày 11/01/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 02/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về