Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 234/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Kim T - Sinh năm: 1976;

Địa chỉ: Tổ A, phường S, thị xã P, tỉnh Lào Cai - Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Thanh B - Sinh năm: 1973;

Địa chỉ: Tổ dân phố số B, thị trấn P, Hện B, tỉnh Lào Cai - Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/10/2020 và bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị Hoàng Thị Kim T trình bầy:

Chị và anh Đỗ Thanh B kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 28/02/2002 tại Ủy ban nhân dân thị trấn S, huyện P (nay là phường S, thị xã P), tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng hòa thuận được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, luôn bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên cãi nhau. Anh B, không chăm lo gia đình nên vợ chồng chị càng mâu thuẫn nhiều hơn. Chị và gia đình hai bên đã tham gia kHên bảo để anh B thay đổi nhưng không được, năm 2005 anh chị sống ly thân, sau đó quay về đoàn tụ một thời gian nhưng lại phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2012 đến nay, anh chị sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Thanh B.

Tại bản tự khai ngày 06/11/2020, anh Đỗ Thanh B trình bầy: Về việc đăng ký kết hôn như chị T đã trình bầy là đúng. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm, cuộc sống không hòa thuận, hạnh phúc. Anh, chị sống ly thân từ năm 2012 đến nay không quan tâm đến nhau, đến nay chị Hoàng Thị Kim T có đơn đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn thì anh nhất trí, không có ý kiến gì khác.

Về con chung: Chị Hoàng Thị Kim T và anh Đỗ Thanh B đều xác nhận, quá trình chung sống anh, chị có hai con chung là cháu Đỗ Thị Thanh N, sinh ngày 10/12/2002 và cháu Đỗ Đức H, sinh ngày 15/11/2012, cả hai cháu phát triển B thường và ở cùng chị T từ khi anh, chị ly thân cho đến nay. Đối với cháu Đỗ Thị Thanh N, tại thời điểm xét xử đã đủ 18 tuổi nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với cháu Đỗ Đức H, chị T có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu H sau khi ly hôn, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung. Anh B nhất trí để chị T nuôi dưỡng cháu H và không có ý kiến gì khác.

Về tài sản chung: Chị T và anh B đều xác nhận không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Chị T và anh B cũng xác nhận không nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự theo quy định. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai các tài liệu, chứng cứ nhưng không hòa giải được vụ án vì vắng mặt bị đơn. Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp cho anh Đỗ Thanh B theo quy định, anh B không có ý kiến gì khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Hện Bảo Thắng phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến phiên tòa hôm nay: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đều thực hiện đúng các quy định của pháp luật: về thủ tục Tố tụng dân sự, xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ và giải quyết trong thời hạn luật định.

Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng; Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, sau đó đã có bản tự khai trình bầy ý kiến và có đơn xin xét xử vắng mặt. Lời khai của các đương sự phù hợp với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, xác định chị T và anh B có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính cách không hợp, vợ chồng sống ly thân nhiều năm, mâu thuẫn của anh chị được xác nhận là đúng sự thật. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xử cho chị Hoàng Thị Kim T được ly hôn với anh Đỗ Thanh B; xử giao cháu Đỗ Đức H, sinh ngày 15/11/2012 cho chị Hoàng Thị Kim T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, do chị T không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Hoàng Thị Kim T khởi kiện xin ly hôn với anh Đỗ Thanh B và đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng chăm sóc con chung khi ly hôn. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thị trấn Phố Lu, Hện Bảo Thắng. Vì vậy đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Hện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị Kim T và anh Đỗ Thanh B là hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm, cuộc sống sống không hòa thuận, hạnh phúc. Anh, chị đều xác nhận đã sống ly thân từ năm 2012 đến nay, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Việc anh, chị có mâu thuẫn và sống ly thân nhiều năm đã được xác nhận là đúng sự thật. Do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và mục đích hôn nhân không đạt được.Vì vậy việc chị T xin ly hôn với anh B là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự theo quy định của pháp luật. Anh Đỗ Thanh B đã có bản tự khai trình bầy ý kiến và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh theo quy định. Vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt anh B là phù hợp với quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về con chung: Chị T và anh B đều xác nhận, quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Đỗ Thị Thanh N, sinh ngày 10/12/2002 và Đỗ Đức H, sinh ngày 15/11/2012, cả hai cháu phát triển B thường và ở cùng chị T từ khi anh, chị ly thân cho đến nay. Đối với cháu Đỗ Thị Thanh N, tại thời điểm xét xử đã đủ 18 tuổi nên không xem xét giải quyết; đối với cháu Đỗ Đức H, chị T có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu H sau khi ly hôn, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung. Anh B nhất trí để chị T nuôi dưỡng cháu H và không có ý kiến gì khác. Chị T đã cung cấp chứng cứ có xác nhận của cơ quan, hiện tại chị T là nhân viên lễ tân tại Đoàn an điều dưỡng 17 Sa Pa – Cục Chính trị quân khu 2, mức lương ổn định, đảm bảo điều kiện nuôi con. Tòa án đã có văn bản ghi ý kiến và cháu Đỗ Đức H cũng có nguyện vọng tiếp tục ở cùng với mẹ là chị Hoàng Thị Kim T.

Vì vậy cần tiếp tục giao cháu Đỗ Đức H cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Do chị T không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị T và anh B xác nhận không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Chị T và anh B đều xác nhận không nợ ai và không cho ai vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Hoàng Thị Kim T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Xử cho chị Hoàng Thị Kim T được ly hôn với anh Đỗ Thanh B.

2. Về con chung: Xử giao cháu Đỗ Đức H - Sinh ngày: 15/11/2012 cho chị Hoàng Thị Kim T trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi; Anh Đỗ Thanh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh Đỗ Thanh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị Kim T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0002614 ngày 27/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Hện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; Chị Hoàng Thị Kim T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về