TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 08 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 300/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phùng Thị H, sinh năm 1993. Có mặt Địa chỉ: Thôn X, xã C, huyện V, tỉnh Yên Bái.
2. Bị đơn: Anh Đặng Mô X, sinh năn 1978. Vắng mặt không có lý do Địa chỉ: Thôn X, xã C, huyện V, tỉnh Yên Bái.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 10/10/2019, bản tự khai ngày 16/10/2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Phùng Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh Đặng Mô X ngày 17/11/2010, đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện V, tỉnh Yên Bái, vợ chồng kết hôn tự nguyện có tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên đánh cãi, chửi nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2019, không ai quan tâm gì đến cuộc sống của nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm đối vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh X.
Về con chung: Chị và anh X có một người con chung là Đặng Hoàng Tuấn H sinh ngày 07 tháng 5 năm 2012. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh X cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng không có tài sản, không vay mượn gì ai nên chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Đặng Mô X đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần để anh X thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình như: Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập nhưng anh X đều vắng mặt không có lý do chính đáng và không gửi văn bản cho Tòa án nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh X đều không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, anh X vắng mặt nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần, việc Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh X là đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; các điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình. Về Quan hệ hôn nhân, giải quyết cho chị Phùng Thị H được ly hôn anh Đặng Mô X; về con chung, giao con là Đặng Hoàng Tuấn H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh X không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con, không ai được ngăn cản.
- Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Phùng Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đặng Mô X và yêu cầu giải quyết việc nuôi con. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn. Chị H và anh X đều trú quán tại thôn X, xã C, huyện V nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Văn Yên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Đặng Mô X đã được thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh X đều vắng mặt, nên vụ án thuộc trường hợp không hòa giải được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa mở vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 18/6/2020 mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng anh X vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh X theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân: Chị Phùng Thị H và anh Đặng Mô X kết hôn vào năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện V, tỉnh Yên Bái vào ngày 17/11/2010. Tại thời điểm kết hôn chị H, anh X đều đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm và vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, mỗi người ở một nơi, không quan tâm gì đến cuộc sống của nhau. Tòa án đã nhiều lần thông báo, triệu tập anh X đến Tòa án để giải quyết việc chị H xin ly hôn nhưng anh X đều không đến. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh X đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh X.
Về con chung: Chị H và anh X có 01 người con chung là Đặng Hoàng Tuấn H sinh ngày 07 tháng 5 năm 2012, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, bản thân chị H có đủ điều kiện, khả năng nuôi con. Mặt khác tại biên bản ngày 14/5/2020 cháu Đặng Hoàng Tuấn H trình bày nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì Vậy, giao cháu H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên anh X không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; các điều 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Phùng Thị H đối với anh Đặng Mô X, chị Phùng Thị H được ly hôn anh Đặng Mô X.
2. Về con chung:
Giao cháu Đặng Hoàng Tuấn H sinh ngày 07 tháng 5 năm 2012 cho chị Phùng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Đặng Mô X không phải cấp dưỡng nuôi con.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về án phí: Chị Phùng Thị H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2017/0001547 ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Xác nhận chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Chị Phùng Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh Đặng Mô X được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 08/07/2020 về ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 29/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về