Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦ THỪA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 259/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Kim T, sinh năm 1992. Địa chỉ: 68 ấp Nhơn Trị, xã T, thành phố A, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu P, sinh năm 1986. Địa chỉ: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Long An.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không rõ lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 31/8/2020 và bản tự khai nguyên đơn Bà Lê Kim T trình bày: Do quen biết nên bà và Ông Nguyễn Hữu P tự nguyện đến với nhau, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn vào năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thành. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều khác biệt trong lối sống, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Từ đó vợ chồng thường xuyên cự cãi, xung đột mâu thuẫn với nhau ngày càng nghiêm trọng không thể hàn gắn được. Tháng 9/2019, bà T bỏ về bên ruột sinh sống. Do đó vợ chồng đã sống ly thân tới nay.

Từ khi sống ly thân đến nay hai bên cũng không có thiện chí hàn gắn tình cảm. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông P.

Quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Hữu Giáp, sinh ngày 28/01/2017; hiện con chung đang sống chung với ông P. Khi ly hôn bà T yêu cầu giao con chung cho ông P nuôi dưỡng và bà không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn Ông Nguyễn Hữu P vắng mặt đồng thời không có văn bản trình bày ý kiến hay yêu cầu cụ thể nào.

Vụ án được Tòa án tiến hành hòa giải để đoàn tụ nhưng các đương sự không tiến hành hòa giải được do bị đơn được triệu tập hợp lệ tới lần thứ 2 mà không tham gia nên Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An phát biểu: Tòa án đã thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp và đúng tư cách các đương sự, việc giải quyết vụ án đúng thời hạn quy định. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng đã tuân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định pháp luật. Về nội dung vụ án: Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được bà T yêu cầu ly hôn là phù hợp nên chấp nhận. Về con chung giao ông P trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quan hệ hôn nhân giữa Bà Lê Kim T và Ông Nguyễn Hữu P có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Nay Bà Lê Kim T yêu cầu ly hôn, ông P đang cư trú tại ấp 4, xã Tân Thành, huyện Thủ Thừa, nên Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Hữu P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử, nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Kim T, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về quan hệ hôn nhân: Trong thời gian chung sống giữa bà T và ông P đã xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhưng cả hai bên không tìm cách để giải quyết mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau. Bà T đã bỏ về bên ruột sống. Do đó ông bà đã sống ly thân 01 năm nay. Tòa án tiến hành hòa giải cho bà T và ông P trở về đoàn tụ đồng thời cho thêm thời gian để ông bà khắc phục tình trạng hôn nhân của mình, song ông P không tham gia hòa giải. Tại phiên tòa ông P cũng vắng mặt cho thấy ông không còn thiết tha với mối quan hệ hôn nhân này. Tại phiên tòa, bà T vẫn cương quyết ly hôn và xác định vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, bà T và ông P không còn sống chung, không còn quan tâm chăm sóc nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà T là phù hợp với Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

Về con chung: Hiện con chung đang sống chung với ông P. Bà T yêu cầu giao con chung cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng. Ông P đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án nhưng không có ý kiến phản đối. Do đó để con chung có môi trường sống ổn định HĐXX nghĩ nên giao con chung cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng cho tới khi con chung tròn 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ông P không có yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết trong vụ án này. Khi cần thiết có quyền làm đơn yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết trong vụ án này. Khi cần thiết bà T và ông P có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 147, 227, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Kim T đối với Ông Nguyễn Hữu P.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Kim T được ly hôn với Ông Nguyễn Hữu P.

Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hữu Giáp, sinh ngày 28/01/2017 cho Ông Nguyễn Hữu P trực tiếp nuôi dưỡng cho tới khi con chung đủ 18 tuổi. Bà Lê Kim T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con chung được quyền đến thăm, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, thì một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con cũng như mức cấp dưỡng.

2. Án phí: Bà Lê Kim T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007428 ngày 14/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa sang án phí.

3. Án xử sơ thẩm, đương sự có mặt không đồng ý thì có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc từ ngày niêm yết bản án.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thủ Thừa - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về