Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 354/2020/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Quang T sinh năm 1994; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; Hiện đang cai nghiện tại; Đội 2, Cơ sở cai nghiện ma túy số 2 Hải Phòng - xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 10 tháng 9 năm 2020 và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Quang T chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 6 năm 2013 và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau ngày cưới chị và anh Lê Quang T về chung sống cùng gia đình anh Trung ở thôn N, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Đến ngày 30 tháng 5 năm 2016 chị và anh Trung đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, chị và anh T kết hôn trên cơ sở do hai bên tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do anh T nghiện ma túy, không chịu lao động, chăm lo cuộc sống gia đình. Mâu thuẫn đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 3/2019 cho đến nay vợ chồng sống ly thân không ai còn quan tâm và chăm sóc đến ai nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục được, chị không đồng ý đoàn tụ với anh T và chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Quang T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Lê Trung K sinh ngày 01 tháng 6 năm 2014 và Lê Trung N sinh ngày 06 tháng 3 năm 2016. Hiện tại anh T đang đi cai nghiện ma túy với thời gian là 18 tháng, con chung còn nhỏ nên chị đề nghị Tòa án giao hai con chung cho chị nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 23 tháng 12 năm 2020 bị đơn anh Lê Quang T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thời gian, điều kiện kết hôn của vợ chồng như lời khai chị L đã trình bày ở trên. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do chị Nguyễn Thị L có quan hệ không đúng mực với người đàn ông khác và chị L bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 3/2019 đến nay và nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng anh xác định cũng do một phần lỗi của anh do mải chơi theo bạn bè. Anh và chị L sống ly thân từ tháng 3/2019 đến nay không ai còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh vẫn còn tình cảm với chị L, anh không muốn các con thiếu sự chăm sóc của bố mẹ nên anh không đồng ý ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị L có hai con chung như chị Nguyễn Thị L trình bày. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, anh không đồng ý để chị L nuôi dưỡng hai con chung, anh đề nghị Tòa án giao con chung Lê Trung N cho anh nuôi dưỡng, giao con chung Lê Trung K cho chị L nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai. Hiện nay anh đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2 Hải Phòng nên bố mẹ anh ở nhà sẽ hỗ trợ anh trong việc nuôi con trong thời gian anh cai nghiện.

Về tài sản chung: Anh Lê Quang T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71,72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử: Xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị L về việc ly hôn và nuôi con; về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Bị đơn anh Lê Quang T có đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa nên căn cứ căn cứ hhoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Lê Quang T.

- Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các đương sự, tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập, đủ cơ sở xác định: Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Quang T chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tại địa phương từ tháng 6 năm 2013. Đến ngày 30 tháng 5 năm 2016 chị L và anh T đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T nghiện ma túy nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 3/2019 đến nay không ai quan tâm và có trách nhiệm với ai nữa. Quá trình giải quyết vụ án, anh T mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng chị L không đồng ý đoàn tụ với anh Trung và vẫn giữ quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn nên vụ án không hòa giải được. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị L là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Quang T có hai con là Lê Trung K sinh ngày 01 tháng 6 năm 2014 và Lê Trung N sinh ngày 06 tháng 3 năm 2016. Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Quang T có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Xét thấy, sau ly hôn việc nuôi dưỡng con chưa thành niên là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, anh Trung hiện nay đang cai nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2 nên không có điều kiện trực tiếp chăm sóc con chung. Chị L có công việc và thu nhập lại được sự hỗ trợ của gia đình trong việc chăm sóc con nên khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc các con của chị L tốt hơn anh Trung, do vậy yêu cầu khởi kiện của chị L về việc giao hai con chung cho chị L nuôi dưỡng sau ly hôn là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Quang T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 1, 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Lê Quang T.

2. Về con chung: Giao hai con chung Lê Trung K sinh ngày 01 tháng 6 năm 2014 và Lê Trung N sinh ngày 06 tháng 3 năm 2016 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị L đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0012839 ngày 20 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về