Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 381/2020/TLST-HNGĐ ngày 19/10/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 241/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Võ Thị Cẩm T, sinh năm: 1987;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. Nơi tạm trú: ấp R, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

* Bị đơn: Anh Hồ Văn L, sinh năm: 1984; Nơi cư trú: ấp 3, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. (Chị T có mặt, anh L vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Võ Thị Cẩm T trình bày:

- Về hôn nhân: Thông qua mai mối, chị T và anh L tự tìm hiểu khoảng hơn 06 tháng, xác định có tình cảm với nhau và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào ngày 26/9/2014 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng với gia đình anh L tại xã T, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu, vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh L ham chơi không lo làm ăn, vợ chồng nhiều lần tranh cãi nhau. Ngoài ra cha mẹ anh L và anh L cũng khó khăn không cho chị T về tham gia đình cha mẹ ruột nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Do đó, chị T đã dọn về nhà cha mẹ ruột tại tỉnh Trà Vinh ở và ly thân với anh L từ đầu năm 2018 đến nay. Hiện tại chị T xác định không còn tình cảm với anh L nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh L.

- Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có hai con chung tên Hồ N, sinh ngày 08/01/2015 và Hồ B, sinh ngày 28/02/2017. Con hiện đang sống chung với anh L, hiện anh L vẫn nuôi dưỡng hai con phát triển tốt. Sau khi ly hôn chị đồng ý giao 02 con chung cho anh L được quyền trực tiếp nuôi con, chị không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: không có không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho chị T, anh L nhưng anh L đều vắng mặt và cũng không gởi bất kỳ văn bản trình bày ý kiến nào đối với yêu cầu khởi kiện của chị T.

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:

-Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án là đúng quy định; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Chị T thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự, anh L chưa thực hiện đầy đủ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T. Về con chung: hiện con chung đang sống với anh L, chị T cũng đồng ý giao 02 con cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng, do đó để tránh xáo trộn ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lý của con chung nên đề nghị giao 02 con cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị T khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh L. Anh Hồ Văn L đăng ký thường trú tại ấp 3, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. Đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại Điều 28, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh L.

[2] Về hôn nhân: Chị T cho rằng chị và anh L cưới nhau vào năm 2014, hôn nhân do tự nguyện và có đăng ký kết hôn. Theo bản trích lục kết hôn do chị L cung cấp thể hiện Ủy ban nhân dân xã T, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre chứng nhận kết hôn cho chị T và anh L vào ngày 26/9/2014. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi cưới nhau, thời gian đầu ông bà sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Chị T cho rằng nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh Hải không lo làm ăn, không còn thương yêu, chăm sóc vợ con. Do đó chị đã dọn ra ở riêng và ly thân với anh L từ năm 2016 cho đến nay.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải để tạo điều kiện hàn gắn cho anh chị. Tuy nhiên, anh L không đến tham dự phiên hòa giải và cũng không gởi bất kỳ văn bản nào thể hiện ý kiến mong muốn hàn gắn với chị T.

Theo biên bản xác minh thu thập chứng cứ ngày 24/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre, nội dung biên bản thể hiện theo địa phương được biết anh T và chị L thường xuyên cãi nhau, nguyên nhân là do anh L ham chơi, không lo làm ăn, anh L lại có lần đánh chị T.

Từ đó có đủ cơ sở khẳng định hôn nhân của chị T và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu chị T để giải quyết cho chị T được ly hôn với anh L.

[3] Về con chung: Chị T cho rằng quá trình chung sống anh chị có hai con chung tên Hồ N, sinh ngày 08/01/2015 và Hồ B, sinh ngày 28/02/2017 hai con hiện nay đang sống với anh L. Từ đầu năm 2018 đến nay, chị T dọn ra ở riêng, anh L vẫn chăm sóc tốt cho hai cháu. Chị T đồng ý giao hai con cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng. Do đó, để tránh gây xáo trộn ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lý của con chung nên cần tiếp tục giao cả hai con chung cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Chị T không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con, anh L vắng mặt không có yêu cầu cấp dưỡng cho con, nếu sau này có tranh chấp về cấp dưỡng cho con thì được quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[4] Chị T cho rằng về tài sản chung, nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Anh L vắng mặt tại Tòa, nếu sau này có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung với chị T thì được quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

tuyên:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Cẩm T cụ thể

[1] Về hôn nhân: Chị Võ Thị Cẩm T được ly hôn với anh Hồ Văn L.

[2] Về con chung: Giao con chung tên Hồ N, sinh ngày 08/01/2015 và Hồ B, sinh ngày 28/02/2017 cho anh Hồ Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị Võ Thị Cẩm T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Võ Thị Cẩm T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: không có.

[4] Về án phí: Buộc chị Võ Thị Cẩm T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0003945 ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Chị Võ Thị Cẩm T đã nộp xong án phí.

[5] Về quyền kháng cáo bản án: Chị Võ Thị Cẩm T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày tuyên án là ngày 08/01/2021). Anh Hồ Văn L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về