Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 182/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 115/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 109/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 2000. HKTT: Xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Phạm Trung S, sinh năm 1992.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Nhật Bản.

Chị Nguyễn Thị Lan A và anh Phạm Trung S đều vắng mặt (Chị Lan A có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Nguyễn Thị Lan A trình bày: Chị và anh Phạm Trung S được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 12 tháng 11 năm 2018 tại UBND Xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Sau khi chung sống với nhau được một thời gian thì chị Lan A và anh S bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, anh S sống ở nước ngoài (Nhật Bản), không quan tâm, chăm sóc mẹ con chị Lan A. Sau nhiều lần được bạn bè và gia đình khuyên nhủ nhưng đều không có kết quả. Chị Lan A xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị Lan A đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh S để hai bên ổn định cuộc sống.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị Lan A, anh S có 01 con chung là cháu Phạm Bảo A1, sinh ngày 09/9/2019. Hiện nay, cháu A1 đang do chị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Lan A đề nghị Tòa án cho chị nuôi con chung là cháu A1 và không yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị Lan A không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Phạm Trung S1 là bố của anh Phạm Trung S. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 06/11/2020 và 23/11/2020, ông S1 trình bày: Anh S và chị Lan A kết hôn từ cuối năm 2018. Hiện nay, anh S đang lao động tại Nhật Bản. Anh S đã được ông thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án gửi. Chị Lan A làm đơn xin ly hôn, anh S xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh S đồng ý ly hôn chị Lan A. Do anh S không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Nhật Bản nên ông không thể cung cấp cho Tòa án.

Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 19849/QLXNC-P5 ngày 29/10/2020 thể hiện: Anh Phạm Trung S, sinh ngày 02/11/1992 tại Hải Dương, CMND số: 142591562, địa chỉ thường trú tại: Xã T, huyện G, Hải Dương; đã sử dụng hộ chiếu số C2005836 do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 26/07/2016, để xuất cảnh lần gần nhất ngày 08/02/2020 qua cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt (Chị Lan A có đơn xin xét xử vắng mặt).

Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị Lan A và anh S đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Lan A được ly hôn anh S; về con chung: giao cháu Phạm Bảo A1, sinh ngày 09/9/2019 cho chị Lan A chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự thỏa thuận về cấp dưỡng tiền nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Lan A có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương, có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Phạm Trung S, là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Nhật Bản. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Tại phiên tòa chị Lan A vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh S vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lan A và anh S tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 12 tháng 11 năm 2018 tại UBND Xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Từ năm 2019, anh S đi lao động ở nước ngoài, có liên lạc về hỏi thăm sức khỏe của con nhưng không hỏi thăm đến cuộc sống, sức khỏe chị Lan A. Sau một thời gian dài vợ chồng không liên lạc, không quan tâm nhau. Chị Lan A xác định tình cảm vợ chồng của chị và anh S không còn, mâu thuẫn trầm trọng không thể khắc phục, đời sống chung không thể kéo dài. Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị Lan A, anh S cũng được đại diện gia đình anh S và chính quyền địa phương xác nhận. HĐXX xét thấy hôn nhân của chị Lan A và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị Lan A ly hôn với anh S là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị Lan A và anh S có 01 con chung là cháu Phạm Bảo A1, sinh ngày 09/9/2019. Hiện nay, cháu A1 đang do chị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị Lan A có nguyện vọng được nuôi con và tự nguyện tạm thời không yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con. Xét thấy, chị Lan A có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho chị Lan A nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau này anh S về Việt Nam sinh sống có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do chị Lan A tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu anh S cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung, sau này chị Lan A có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị Lan A và anh S không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Lan A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình:

khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Lan A. Xử cho chị Nguyễn Thị Lan A ly hôn anh Phạm Trung S.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Phạm Bảo A1, sinh ngày 09/9/2019 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị Lan A tự nguyện không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Lan A có quyền khởi kiện yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Anh Phạm Trung S có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lan A phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) đồng án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2018/0002830 ngày 15/10/2020. Chị Lan A đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lan A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về