Bản án 02/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH H

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh H. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1206/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 đối với:

Họ và tên: LÝ THỊ H; Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nữ ; Sinh ngày 04/4/1996, tại huyện V, tỉnh H. Nơi cư trú: Thôn Bình V, xã Đạo Đ, huyện V, tỉnh H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hoá: 0/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Đảng phái, đoàn thể: Không.

Con ông: Lý Văn Ch, sinh năm 1968 và bà Cháng Thị Ch, sinh năm 1969; Chồng, con: Chưa có

- Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 25/9/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H.

Người bào chữa cho bị cáo Lý Thị H: Bà Bùi Thị H; sinh năm 1987. Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H. Hôm nay (có mặt.)

Ngưi làm chứng:

Ông Đỗ Ngọc C, Sinh năm 1977; Trú tại: Tổ 14, phường Nguyễn Trãi, thành phố H, tỉnh H (Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H (vắngmặt)

Ông Nguyễn Thanh Tr, Sinh năm 1993; Trú tại: Thôn Cường Th, xã Phương T, huyện V, tỉnh H. (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Năng Th, Sinh năm 1960; Trú tại: Tổ 12, phường Trần Phú, thành phố H, tỉnh H(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 24/9/2019, Lý Thị H, sinh năm 1996, trú tại thôn Bình Vàng, xã Đạo Đức, huyện V, tỉnh H (là đối tượng nghiện ma túy) nhận được điện thoại của Đỗ Ngọc C, sinh năm 1977, trú tại Tổ 14, phường Nguyễn Trãi, thành phố H, tỉnh H (là người yêu của H và là đối tượng nghiện ma túy) rủ đi chơi, H đồng ý. Sau đó C điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 23A – 031.30 đến Km 15 đường H – Tuyên Q đợi H. Còn H sau khi C gọi điện H lấy 03 gói nilon ma túy, 02 chiếc bình thủy tinh (cóng), 05 ống hút nhựa, 01 nắp nhựa màu xanh đã đục 02 lỗ ở trong phòng ngủ cho vào túi giả da màu vàng và đi ra khu vực Km 15 nơi C đang đợi. Sau khi lên xe H để túi giả da của H vào trong hộp để đồ phía trước ghế phụ nơi H ngồi rồi C điều khiển xe ô tô chở H đi chơi. Trên đường đi H mở hộp để đồ thì thấy 01 gói ma túy rơi ra nên H cho gói ma túy đó vào phía sau ốp lưng điện thoại của H. Khoảng 02 giờ ngày 25/9/2019 C và H đến nhà của Nguyễn Thanh Tr, sinh năm 1993, trú tại Thôn Cường Th, xã Phương T, huyện V, tỉnh H để tìm Nguyễn Trung K (là bạn của C và là anh trai của Tr). Do K đang ở xã Thanh Th nên C rủ Tr đi cùng lên xã Thanh Th để tìm K. Sau đó cả ba người cùng nhau lên xã Thanh Th, huyện V. Khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày thì ba người đến khu vực biên giới (thuộc thôn Giang N, xã Thanh Th) thì bị Tổ công tác của Đồn công an Thanh Th kiểm tra hành chính thì phát hiện phía sau ốp điện thoại của H và trong túi giả da của H có 03 gói hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy nên yêu cầu C, H, Tr về trụ sở Đồn công an xã Thanh Th để làm việc. Quá trình làm việc H đã thừa nhận 03 gói hạt tinh thể màu trắng là của H. Cùng ngày 25/9/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện V tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lý Thị H tại nhà ông Lý Văn Ch (là bố đẻ của H), sinh năm 1968, trú tại thôn Bình V, xã Đạo Đ, huyện V. Quá trình khám xét đã thu giữ được 01 hộp vỏ giấy lương khô bên trong có: 01 hộp gỗ và 01 hộp kim loại. Bên trong hộp gỗ có 10 tờ giấy bạc, 07 gói nilon chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 gói giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng ngà (nghi là ma túy). Bên trong hộp kim loại có 01 gói giấy chứa chất bột màu trắng ngà (nghi là ma túy) được niêm phong theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ được 01 cuộn giấy bạc, 27 ống hút nhựa và 09 bật lửa ga.

Ngày 25/9/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành Trưng cầu giám định: 03 gói chứa hạt tinh thể màu trắng ký hiệu A1, A2, A3 có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma túy không? Loại chất ma túy gì, tiền chất gì? Trọng lượng (khối lượng) là bao nhiêu (BL số 17).

Tại bản giám định số 323/KL-PC09, ngày 30/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: Chất tinh thể màu trắng ký hiệu lần lượt A1, A2, A3 là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,44gam (BL số 20).

Ngày 26/9/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành Trưng cầu giám định: 09 gói ký hiệu A1, A2, A3, A4, A5, A6, A7, A8, A9 có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma túy không? Loại chất ma túy gì, tiền chất gì? Trọng lượng (khối lượng) là bao nhiêu (BL số 22).

Tại bản giám định số 325/KL-PC09, ngày 02/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng ký hiệu lần lượt A1 đến A7 là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,4gam.

- Chất bột dạng cục màu trắng ngà ký hiệu A8, A9 là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 1,2gam (BL số 26).

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 3,04 gam ma túy (còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định là 2,88 gam được niêm phong trong các phong bì ký hiệu A1, A2, A3 và ký hiệu từ A1 đến A9 theo quy định);

- 01 túi giả da màu vàng hình tròn đường kính 17cm, độ dầy 6cm, mặt trước có họa tiết hai hình trái tim đỏ, một hình bán nguyệt màu đen;

- 04 ống nhựa màu vàng dài 16cm;

- 01 ống nhựa màu cam dài 15cm;

- 01 nắp nhựa màu xanh có hai lỗ;

- 02 cóng thủy tinh màu trắng (ống thủy tinh);

- 01 điện thoại Iphone 6, màu vàng, màn hình cảm ứng, phần ốp lưng màu đen – xám;

- Vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T1;

- Vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T2;

- Vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu A1 – A9;

- 01 hộp giấy màu vàng – xanh, in chữ lương khô 5 kích thước 10 x 10 x10cm;

- 01 hộp gỗ ép, mặt ngoài dán băng dính màu đen, kích thước 07 x 13 x 02cm;

- 10 tờ giấy bạc kích thước 03 x 11cm;

- 01 hộp kim loại màu tím than kích thước 1,6 x 10 x 06cm;

- 05 túi ni lon màu trắng đục kích thước 1,5 x 1,5cm, không chưa gì bên trong túi;

- 01 cuộn giấy bạc hình trụ tròn dài 46cm, đường kính 3,8cm đã sử dụng;

- 01 túi ni lon màu xanh;

- 27 ống hút nhựa nhiều màu sắc;

- 09 bật lửa ga nhiều màu sắc;

- 01 điện thoại di động vỏ nhựa dạng bàn phím, nhãn hiệu itel, màu đỏ.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 ống kim loại màu xám dài 70cm, đường kính 02cm;

- 01 dao quắm bằng kim loại dài 27cm, chỗ rộng nhất của dao dài 5cm, lưỡi dao dài 27cm, chuôi dao bằng gỗ dài 39,5cm quấn bằng băng dính màu đen và buộc dây cao su màu đen;

- 01 dao nhọn bằng kim loại (loại dao bấm lưỡi gập, chỗ rộng nhất của dao là 2,5cm, lưỡi dao dài 9,5cm. Chuôi dao dài 11,5cm.)

- 01 dao nhọn dạng dao bầu, lưỡi dao dài 20cm, chuôi dao dài 10cm, phần chuôi dao được cuốn băng dính đen, phần lưỡi dao cuốn băng dính một phần để hở lưỡi dao màu sáng.

- 01 dao gọt hoa quả chỗ rộng nhất của dao là 3,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 15,5cm, chuôi dao bằng nhựa dài 12cm;

- 01 dao nhọn bằng kim loại chỗ rộng nhất của dao là 2cm, lưỡi dao dài 10,5cm, cán bằng gỗ dài 11,5cm, phần lưỡi dao được cuốn băng dính đen một phần;

- 01 dao nhọn bằng kim loại chỗ rộng nhất là 2cm, lưỡi dao dài 12cm, chuôi dao bằng gỗ dài 11,5cm;

- 01 ống kim loại màu xám dài 76cm, đường kính 02cm;

- 01 kéo bằng kim loại dài 21cm;

- 01 kéo bằng kim loại dài 18cm cán nhựa màu xanh than;

- 01 kéo bằng kim loại dài 12cm cán nhựa màu đen;

- 01 kẹp bằng kim loại dạng kẹp y tế dài 16cm;

- 01 con dao gập chuôi bằng sắt đã bị gỉ, màu xanh đen;

- 01 kéo bằng kim loại dài 10cm dạng kéo gập.

Tại cáo trạng Số: 03/CT-VKS ngày 24 tháng 12 năm 2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh H. Quyết định truy tố đối với bị cáo Lý Thị H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.

Trước cơ quan điều tra Tại phiên tòa hôm nay, Lý Thị H, khai nhận: Khoảng tháng 8/2019 (không nhớ ngày) bị cáo điều khiển xe mô tô (không nhớ biển kiểm soát) đi từ nhà ở thôn Bình Vàng, xã Đạo Đ, huyện V xuống huyện Hàm Y chơi. Khi đến khu vực xã Tân Q, huyện B thì bị hỏng xe. Lúc này có 01 người phụ nữ đi xe mô tô đến và giới thiệu tên Kh (không biết tên đệm và địa chỉ cụ thể) nhà ở B chỉ cho H chỗ sửa xe và cho nhau số điện thoại để liên lạc. Khoảng 10 ngày sau thì Kh gọi điện thoại hẹn gặp bị cáo ở thị trấn V. Sau khi gặp nhau, qua trò chuyện Kh hỏi bị cáo có sử dụng ma túy không, bi cáo trả lời là “có”. Sau đó Kh đưa cho bị cáo 01 tép ma túy để bị cáo sử dụng. Do không có ma túy để sử dụng, nên ngày 20/9/2019 bị cáo gọi điện thoại cho Kh hỏi mua 3.000.000đ (Ba triệu đồng) ma túy, Kh đồng ý và hẹn 13 giờ cùng ngày bị cáo ra km 16 đường H – Tuyên Q (thuộc thôn Làng Kh, xã Đạo Đ, huyện V) để nhận hàng. Khoảng 13 giờ cùng ngày bị cáo đến, bị cáo đưa cho Kh số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng), Kh đưa cho bị cáo 01 túi ni lon quần áo và nói “đ” để ở trong đó, bị cáo cầm túi ni lon quần áo đi về nhà còn Kh đi đâu H không biết. Về đến nhà bị cáo mở túi nilon ra thấy trong túi có 02 chiếc hộp (01 hộp gỗ kích thước 07cm x 13cm x 02cm và 01 hộp bằng kim loại kích thước 10cm x 06cm x 1,6cm) cả 02 hộp đều đựng ma túy (bi cáo không đếm số lượng). Bị cáo cho 02 hộp ma túy này vào 01 vỏ gói lương khô 5 (có sẵn từ trước) và để trong buồng ngủ của bị cáo. Khoảng 19 giờ ngày 24/9/2019 bị cáo lấy 01 gói ma túy trong hộp kim loại ra để sử dụng. Khoảng 22 giờ cùng ngày thì bị cáo mang theo 03 gói ma túy và dụng cụ để đi chơi với C với mục đích sử dụng thì bị lực lượng chức phát hiện và tạm giữ. Bị cáo xin đề nghị được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật sớm hòa nhập công đồng và gia đình.

Người có quyền lợi liên quan Nguyễn Năng Th, khai tại hồ sơ hoàn toàn phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo và biên bản hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận giám định vật chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Người liên quan không đề nghị bị cáo bồi thường gì thêm.

Người làm chứng: Anh Đỗ Ngọc C, Nguyễn Thanh Tr, đã khai tại hồ sơ hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vthực hành quyền công tố tại phiên tòa ngày hôm nay, có quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo đưa ra chứng cứ đánh giá mức độ hành vi phạm tội và thái độ thành khẩn khai báo của bị cáo; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; lời khai của người làm chứng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vđề nghị HĐXX tuyên bố:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Thị H, phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1 Điều 51; khon 1 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: bị cáo Lý Thị H, từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (25/9/2019).

Về vật chứng:

Đề nghị áp điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Tịch thu sung công quỹ vật chứng dùng vào việc phạm tội và trả lại vật chứng không liên quan đến vụ án.

+ Tịch thu tiêu hủy vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành và vật chứng không có giá trị sử dụng.

Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo của xã Đạo Đức, huyện V, tỉnh H có đơn xin miễn giảm án phí nên miến án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Phần tranh luận tại phiên tòa:

Người bào chữa cho bị cáo Lý Thị H là bà Bùi Thị H - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H. phát biểu luận cứ có quan điểm đồng tình với việc truy tố, xét xử đối với bị cáo Hồng về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Về tình tiết giảm nhẹ, tại quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hồng thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; thành phần gia đình thuần nông thuộc hộ ngèo. Do vậy, người bào chữa đề nghị. HĐXX áp dụng điểm s,t khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Vật chứng, án phí và quyền kháng cáo thống nhất với quan điểm của đại diện VKS tại phiên Tòa.

Bị cáo Lý Thị H có quan điểm nhất trí với luận cứ bào chữa của người bào chữa cho bị cáo.

Quyền của bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo Hồng nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra tại phiên tòa, không có ý kiến gì. Bị cáo Hồng nói lời sau cùng: Đề nghị xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình giải quyết vụ án: HĐXX nhận thấy Cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát; Kiểm sát viên đã thực hiện quyết định tố tụng về khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra biện pháp bắt tạm giam đối với bị cáo, ra quyết định truy tố; thu thập chứng cứ tài liệu, vật chứng đã khách quan, phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự không có khiếu tố, khiếu nại.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên Tòa hôm nay bị cáo Lý Thị H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 22 giờ ngày 24/9/2019 bị cáo lấy 01 gói ma túy trong hộp kim loại mà bị cáo đã mua trước đó trong đó có 03 gói ma túy và dụng cụ để đi chơi với C với mục đích sử dụng thì bị lực lượng chức phát hiện ngoài ra quá trình khám xét nơi ở của bị cáo cơ quan điều tra còn phát hiện thêm 07 gói nilon chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 gói giấy chứa chứa chất bột màu trắng ngà theo kết quả giám định kết luận là ma túy. Lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người làm chứng, người liên quan, biên bản hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận giám định vật chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy HĐXX đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lý Thị H đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a...

c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine....”

Ngoài ra theo Khoản 5: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Hành vi phạm tội của bị cáo Lý Thị H đã xâm phạm sự quản lý nhà nước đối với chất ma tuý, vi phạm trật tự an toàn xã hội, sức khoẻ cộng đồng ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi của dân tộc, vì chất ma tuý là chất kích thích gây ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác khi sử dụng nếu sử dụng nhiều lần sẽ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Từ đó phát sinh ra nhiều tệ nạn xã hội khác như cướp giật, trộm cắp, lây truyền dịch bệnh HIV/AIDS và gây mất trật tự trị an, xã hội tại địa phương, hành vi tàng trữ sử dụng ma túy của bị cáo có tính chất nghiêm trọng. Do vậy HĐXX xét thấy cần thiết lên mức án nghiêm minh tương xứng với tính chất mức độ phạm tội mà bị cáo gây ra và cần thiết, việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo có thời gian cai nghiện cũng như thời gian cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và giáo dục phòng ngừa chung cho loại tội phạm này theo khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS là phù hợp quan điểm đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa.

Đi với bị cáo Lý Thị H không có công việc làm và không có thu nhập ổn định. HĐXX xét thấy không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo Lý Thị H không có tình tiết tăng nặng.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lý Thị H khai báo thật thà, chưa có tiền án. tiền sự. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng: Áp dụng: điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Tịch thu sung công quỹ vật chứng dùng vào việc phậm tội và trả lại vật chứng chiếc điện thoại cho anh Đỗ Ngọc C không liên quan đến vụ án.

+ Tịch thu tiêu hủy vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành và vật chứng không có giá trị sử dụng.

- 3,04 gam ma túy (Vật chứng còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định là 2,88 gam được niêm phong trong các phong bì ký hiệu A1, A2, A3 và ký hiệu từ A1 đến A9).

- Tịch thu tiêu hủy những vật chứng đã qua sử dụng không có giá trị sử dụng (tình trạng vật chứng theo biên bản thu giũ và giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra và cục thi hành án Dân sự huyện Vlập ngày 25/12/2019).

Trong quá trình điều tra giải quyết vụ án cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng: 01 ví da màu nâu, bên ngoài có nhiều vết trầy xước; 01 giấy chứng minh nhân dân số 073026161 mang tên Đỗ Ngọc C; 01 giấy phép lái xe hạng C số 080144004935 mang tên Đỗ Ngọc C; 01 đăng ký xe ô tô số 089911 mang tên Trần Văn Q; Số tiền 30.900.000đ (Ba mươi triệu chín trăm nghìn đồng). Quá trình điều tra xác định số tài sản và các giấy tờ nêu trên là của Đỗ Ngọc C. Ngày 11/10/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã trả lại cho bà Đỗ Thị Thùy L (là em gái của Đỗ Ngọc C) theo Giấy ủy quyền ngày 10/10/2019).

- 01 chiếc xe ô tô biển kiểm soát 23A – 031.30; 01 chìa khóa màu đen; 01 điều khiển điện. Quá trình điều tra xác định số tài sản này là của ông Nguyễn Thanh N, sinh năm 1960, trú tại tổ 12, phường Trần Ph, thành phố H nên ngày 21/11/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã trả lại cho chủ sở hữu (BL số 157). Tại phiên Tòa hôm nay những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nguời có mặt tại phiên tòa không có ý kiến gì về việc bồi thường nên HĐXX không xem xet giải quyết.

[5] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo có xác nhận của chính quyền xã và có đơn xin miến giảm án phí. Cho bi cáo H được miến án phí. Theo quy định khoản Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12, khoản 1 Điều 14 theo Nghị quyết số 326-2016-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH “quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

[6] Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đi với Đỗ Ngọc C, sinh năm 1977, trú tại tổ 14, phường Nguyễn Trãi, thành phố H, tỉnh H là người đã rủ bị cáo Hồng đi chơi. Khi đi chơi C không biết H mang theo ma túy đến khi lực lượng chức năng kiểm tra phát hiện trên xe C có ma túy (bị cáo H mang theo với mục đích sử dụng) cơ quan điều tra đã có quyết định xử lý hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với C. HĐXX không xem xét xử lý.

Đi với người phụ nữ tên Kh đã bán cho bị cáo H 3.000.000đ (Ba triệu đồng) tiền ma túy. Quá trình điều tra bị cáo khai nhận chỉ biết tên là Kh, không biết năm sinh, tên đệm, địa chỉ nơi cư trú cụ thể. Cơ quan CSĐT Công an huyện Vsẽ tiếp tục điều tra, xác minh khi xác định được nhân thân, lai lịch của Kh sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I/ Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điển s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lý Thị H, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Lý Thị H, 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, giữ (ngày 25/9/2019)..

II/ Về vật chứng: Áp dụng: điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1) Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Iphone 6, màu vàng, màn hình cảm ứng, phần ốp lưng màu đen – xám, số IMEI: 356148093400247( không kiểm tra tình trạng hoạt động của máy) của bị cáo Lý Thị H.

2) Tịch thu tiêu hủy vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, sử dụng.

- 01 phong bì niêm phong có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H, có chứa 0,15g ma túy. Bên ngoài phong bì ghi: Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu A1.

- 01 phong bì niêm phong có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H, có chứa 0,23g ma túy. Bên ngoài phong bì ghi: Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu A2, A3.

- 01 phong bì niêm phong có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H, có chứa 2,5g ma túy. Bên ngoài phong bì ghi: Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu A1 đến A9.

- 01 phong bì niêm phong có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H. Bên ngoài phong bì ghi: vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T1.

- 01 phong bì niêm phong có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H. Bên ngoài phong bì ghi: vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T2, T3.

- 01 phong bì niêm phong có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H. Bên ngoài phong bì ghi: vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu N1.

3) Tịch thu tiêu hủy những vật chứng đã qua sử dụng không có giá trị sử

- 01 túi giả da màu vàng hình tròn đường kính 17cm, độ dầy 6cm, mặt trước có họa tiết hai hình trái tim đỏ, một hình bán nguyệt màu đen;

- 04 ống nhựa màu vàng dài 16cm;

- 01 ống nhựa màu cam dài 15cm;

- 01 nắp nhựa màu xanh có hai lỗ;

- 02 ống thủy tin (cóng) màu trắng;

- 01 hộp giấy màu vàng – xanh, in chữ lương khô 5 kích thước 10 x 10 x10cm;

- 01 hộp gỗ ép, mặt ngoài dán băng dính màu đen, kích thước 07 x 13 x 02cm;

- 10 tờ giấy bạc kích thước 03 x 11cm;

- 01 hộp kim loại màu tím than kích thước 1,6 x 10 x 06cm;

- 05 túi ni lon màu trắng đục kích thước 1,5 x 1,5cm, không chứa gì bên trong túi;

- 01 cuộn giấy bạc hình trụ tròn dài 46cm, đường kính 3,8cm đã sử dụng;

- 01 túi ni lon màu xanh;

- 27 ống hút nhựa nhiều màu sắc;

- 09 bật lửa ga nhiều màu sắc;

- Vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T1;

- Vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T2;

- Vỏ bao gói và phong bì niêm phong cũ ký hiệu A1 – A9;

- 01 ống kim loại màu xám dài 70cm, đường kính 02cm;

- 01 dao quắm bằng kim loại dài 27cm, chỗ rộng nhất của dao dài 5cm, lưỡi dao dài 27cm, chuôi dao bằng gỗ dài 39,5cm quấn bằng băng dính màu đen và buộc dây cao su màu đen;

- 01 dao nhọn bằng kim loại (loại dao bấm lưỡi gập, chỗ rộng nhất của dao là 2,5cm, lưỡi dao dài 9,5cm. Chuôi dao dài 11,5cm).

- 01 dao nhọn dạng dao bầu, dao dài 30cm, chỗ rộng nhất là 06 cm, lưỡi dao dài 20cm, chuôi dao dài 10 cm, phần chuôi dao được cuốn băng dính đen, phần lưỡi dao cuốn băng dính một phần để hở luwoix dao màu sáng.

- 01 dao gọt hoa quả chỗ rộng nhất của dao là 3,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 15,5cm, chuôi dao bằng nhựa dài 12cm;

- 01 dao nhọn bằng kim loại chỗ rộng nhất của dao là 2cm, lưỡi dao dài 10,5cm, cán bằng gỗ dài 11,5cm, phần lưỡi dao được cuốn băng dính đen một phần;

- 01 dao nhọn bằng kim loại chỗ rộng nhất là 2cm, lưỡi dao dài 12cm, chuôi dao bằng gỗ dài 11,5cm;

- 01 ống kim loại màu xám dài 76cm, đường kính 02cm;

- 01 kéo bằng kim loại dài 21cm;

- 01 kéo bằng kim loại dài 18cm cán nhựa màu xanh than;

- 01 kéo bằng kim loại dài 12cm cán nhựa màu đen;

- 01 kẹp bằng kim loại dạng kẹp y tế dài 16cm;

- 01 con dao gập chuôi bằng sắt đã bị gỉ, màu xanh đen;

- 01 kéo bằng kim loại dài 10cm dạng kéo gập.

4) Trả lại cho anh Đỗ Ngọc C. Địa chỉ: Tổ 14, phường Nguyễn Trãi, thành phố H, tỉnh H. 01 điện thoại di động vỏ nhựa dạng bàn phím, nhãn hiệu itel, màu đỏ, kích thước 1x5cm;

(Tình trạng vật chứng theo biên bản thu giữ và biên bản khám xét và biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra Công an huyện V, tỉnh H và Chi Cục thi hành án huyện V, tỉnh H ngaỳ 25/12/2019).

III/ Về án phí:

- Áp dụng: Điểm đ khoản 1 Điều 12, Khoản 1 Điều 14 theo Nghị quyết số 326-2016-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 “quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

- Bị cáo Lý Thị H được miễn án phí hình sự sơ thẩm .

IV/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Báo cho bị cáo; người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 13- 01-2020).

Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về