Bản án 02/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2019/TLST-HS ngày 03/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 47/2019/QĐXXST- HS ngày 10/12/2019 đối với bị cáo:

Thạch M, sinh năm: 1988, tại tỉnh Trà Vinh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp C, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; số CMND: 331564597; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Thạch Kim S, sinh năm: 1962 và bà Thạch Thị B, sinh năm: 1962; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại Bản án số 94/2013/HS-PT ngày 09/9/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử phạt Thạch M 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt và đã xóa án tích. Bị cáo bị ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/9/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Nguyễn Trí T, sinh năm: 1963 (vắng mặt);

Địa chỉ: 44, L, Phường 4, Tp V, tỉnh Vĩnh Long.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Quốc Th, sinh năm: 1990 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp Phú T, xã An Phú T, huyện C1, tỉnh Đồng Tháp.

2. Trương Quốc T1, sinh năm: 1971 (có mặt);

Địa chỉ: Thôn G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.

- Người làm chứng:

1. Lê Bá T2, sinh năm: 1979 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp 3, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

2. Nguyễn Chí H, sinh năm: 2000 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp L, xã L1, huyện L1, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 26/6/2019, anh Trương Quốc T1 điều khiển xe đầu kéo BKS 51C – 709.16, kéo theo rơmooc, BKS 51R – 9776, lưu thông trên đường Nguyễn Văn L hướng từ khu đô thị Phú Mỹ H, Quận 7, TP H về Công ty S (gọi tắt là Công ty S) tại Ấp 3, xã L, huyện C, tỉnh Long An để chở cọc bê tông. Khi đến địa phận huyện B, TP H, anh T1 điều khiển xe vượt lên bên phải xe ô tô tải BKS 66C – 041.15 do anh Nguyễn Quốc Th điều khiển lưu thông cùng chiều phía trước thì xảy ra va chạm, làm bể kính chiếu hậu bên phải xe ô tô tải BKS 66C – 041.15. Anh Th điều khiển xe vượt lên, yêu cầu T1 dừng xe lại để giải quyết nhưng anh T1 điều khiển xe bỏ chạy nên anh Th đuổi theo đến đường tỉnh 830B, gần cổng Công ty S. Anh T1 thấy anh Th đuổi theo nên gọi cho Thạch M là đồng nghiệp lái xe chung trong Công ty S ra hỗ trợ để giải quyết vụ va quẹt giao thông nói trên. Lúc nay Thạch M đã uống rượu nên tự ý cầm theo 01 đoạn gỗ kích thước 113cm x 9cm x 4,5cm, nặng 02kg, đi từ cổng Công ty S ra đường tỉnh 830B đứng trước đầu xe của anh Th rồi nhảy lên cửa phía bên tài xế, yêu cầu anh Th và 02 người đi chung trên xe là Lê Bá T2 và Nguyễn Chí H xuống xe nói chuyện nhưng anh Th không xuống mà lùi xe bỏ chạy nên M nhảy xuống đất. M đứng trước đầu xe và dùng cây gỗ nêu trên đập 02 cái vào kính chắn gió phía trước làm vỡ kính rồi cầm theo cây gỗ đem về xe của M cất, còn anh T1 cũng cầm 01 cây tuýp sắt nhưng chỉ đứng trên xe của anh T1 không tham gia đập xe của anh Th. Sau khi bị đập vỡ kính xe, anh Th điều khiển xe bỏ chạy và đến Công an xã L trình báo sự việc.

Tại kết luận về định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 32/KL -HĐĐGTS ngày 02/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận tổng giá trị tài sản thiệt hại của xe ô tô tải BKS 66C – 041.15 là 17.373.000 đồng.

- Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Thạch M thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng nêu. Sau khi phạm tội, bị cáo và anh Trương Quốc T1 đã cùng nhau bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu của bị hại số tiền là 27.218.760 đồng (bao gồm thiệt hại của kính chiếu hậu khi va quẹt và tiền công lắp ráp). Bị cáo đồng ý việc bị cáo bị truy tố về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” là đúng người, đúng tội, không bị oan sai. Bị cáo đồng ý với Kết luận định giá tài sản; biên bản khám nghiệm hiện trường; bản ảnh hiện trường; lời khai của người làm chứng vắng mặt mà Hội đồng xét xử công bố tại phiên tòa. Quá trình điều tra bị cáo tự nguyện khai báo, không bị đe dọa, cưỡng ép hay nhục hình.

- Quá trình điều tra bị hại Nguyễn Trí T khai: Tối 26/6/2019, xe ô tô tải BKS 66C – 041.15 của anh T bị bị cáo Thạch M cố ý đập bể kính chắn gió phía trước bị thiệt hại là 17.373.000 đồng. Anh T đã yêu cầu bị cáo Thạch M và anh Trương Quốc T1 bồi thường tổng số tiền là 27.218.760 đồng (bao gồm thiệt hại của kính chiếu hậu khi va quẹt và tiền công lắp ráp), bị cáo và anh T1 đã bồi thường xong. Do đó, về trách dân sự, anh T không yêu cầu gì thêm. Về trách nhiệm hình sự, anh T xin bãi nại cho bị cáo Thạch M.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, anh Trương Quốc T1 trình bày: Quá trình xe anh T1 và của anh Nguyễn Quốc Th lưu thông song song sát với nhau trên đường Nguyễn Văn L, xe anh Th xin vượt nhưng anh T1 không đồng ý, sau đó anh T1 không biết xe của anh có va quẹt với xe anh Th không nhưng xe anh Th vượt lên yêu cầu anh T1 dừng lại, anh T1 không dừng lại mà tiếp tục điều khiển xe lưu thông, khi đến trạm thu phí thì 01 người bên xe anh Th cầm tuýp sắt nhảy lên cabin xe anh T1 đập. Vì vậy, anh T1 tiếp tục điều khiển xe chạy về đến đường tỉnh 830B thuộc địa phận huyện C nhưng xe 66C – 041.15 của anh Th vẫn tiếp tục đuổi theo nên anh Th điện thoại nhờ Thạch M là lái xe chung ra hỗ trợ giải quyết. Khi xe anh T1 chạy đến trước cổng công ty S thì xe anh Th cũng chạy tới. Lúc này Thạch M trên tay cầm 01 khúc cây gỗ leo lên cabin xe của anh Th, thấy xe anh Th lùi lại để bỏ chạy, khi ra tới đường tỉnh thì anh T1 không thấy rõ việc gì xảy ra, sau đó thì thấy Thạch M đi vào trên tay vẫn cầm khúc cây gỗ và nói là đã đập kính xe của anh Th. Anh T1 khẳng định là chỉ nhờ Thạch M ra hỗ trợ giải quyết chứ không có xúi giục Thạch M đập kính xe của anh Th, sự việc đập kính xe chỉ có 01 mình Thạch M thực hiện. Sau khi sự việc xảy ra thì anh T1 và bị cáo Thạch M đã bồi thường tất cả số tiền mà bị hại yêu cầu là 27.218.760 đồng (bao gồm thiệt hại của kính chiếu hậu khi va quẹt và tiền công lắp ráp). Anh T1 thừa nhận việc cùng Thạch M bỏ tiền ra bồi thường cho bị hại là tự nguyện nên anh T1 không yêu cầu Thạch M phải hoàn trả.

- Cáo trạng số: 46/CT-VKSCĐ ngày 27/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Thạch M về tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản" theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Thạch M đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản". Bị cáo có nhân thân xấu; hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác; gây mất trật tự và an toàn xã hội nên cần phải nghiêm trị.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết là phạm tội có tính côn đồ.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; bị hại có đơn đề nghị không xử lý hình sự, xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d, khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù; đề nghị miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo khoản 5 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không đề cập.

- Về vật chứng: 01 đoạn gỗ kích thước 113cm x 9cm x 4,5cm, nặng 02kg;

01 mãnh kính bị vỡ hình tam giác, có số đo các cạnh là 13cm, 16cm, 22cm, trên mặt kính có ký hiệu CCC E000001, độ dày 0,7cm đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Ý kiến của bị cáo đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo bị truy tố về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” là đúng, không bị oan sai.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi sai trái của mình, bị cáo rất hối hận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy địn h của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 26/6/2019, tại cổng Công ty S tại Ấp 3, xã L, huyện C, tỉnh Long An. Sau khi nghe anh Trương Quốc T1 nhờ ra giải quyết vụ va quẹt xe thì bị cáo Thạch M dùng 01 đoạn gỗ kích thước 113cm x 9cm x 4,5cm, nặng 02kg, cố ý đập 02 cái vào kính chắn gió phía trước, làm vỡ kính của xe ô tô tải BKS 66C – 041.15 của anh Nguyễn Trí T, do anh Nguyễn Quốc Th điều khiển, gây thiệt hại giá trị tài sản là 17.373.000 đồng. Xét thấy, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận biết tài sản hợp pháp của người khác là do công sức lao động làm ra được pháp luật bảo vệ. Việc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản" được quy định tại khoản 1, Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định như sau “Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát: Đề nghị xét xử bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy, sau khi bị cáo được anh T1 điện thoại nhờ giải quyết vụ tai nạn giao nhưng khi ra gặp xe ô tô tải BKS 66C – 041.15 thì bị cáo chưa tìm hiểu rõ nguyên nhân mà đã dùng cây gỗ đập vỡ kính xe do anh Th điều khiển là thuộc trường hợp phạm tội có tính côn đồ.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cãi, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là người dân tộc Khmer nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Xét về nhân thân của bị cáo: Ngày 09/9/2013, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử phạt 04 năm 06 tháng tù về “Cướp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2015, đã được xóa án tích nên bị cáo thuộc trường hợp nhân thân xấu.

[7] Xét hình phạt đối với bị cáo: Hành vi của bị cáo Thạch M là nguy hiểm cho xã hộinên cần xử phạt nghiêm để giáo dục bị cáo và răn đe cho xã hội.

Tuy nhiên, xét toàn bộ diễn biến của sự việc dẫn đến hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình mà bị cáo được hưởng và đặc biệt là việc bị cáo thể hiện sự ăn năn hối cãi trong quá trình điều tra và tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần phạt cải tạo không giam giữ để bị cáo tự cải tạo, tu dưỡng bản thân dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là phù hợp. Do bị cáo không có thu nhập ổn định thường xuyên nên xét cho bị cáo không phải khấu trừ thu nhập hàng tháng sung vào công quỹ Nhà nước.

[8] Xét hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định thường xuyên nhưng vẫn có thu nhập được hưởng theo phần trăm công việc nên cần buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là hình phạt tiền để nhằm răn đe.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận giải quyết xong nên không xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng: 01 đoạn gỗ kích thước 113cm x 9cm x 4,5cm, nặng 02kg; 01 mãnh kính bị vỡ hình tam giác, có số đo các cạnh là 13cm, 16cm, 22cm, trên mặt kính có ký hiệu CCC E000001, độ dày 0,7cm. Xét đây là công cụ phạm tội và vật chứng không còn sử dụng được nên căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sựđiểm đ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[11] Về án phí: Bị cáo Thạch M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326 của UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52; Điều 36; Điều 50; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 260; Điều 331; Điều 332 và Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên bố: Bị cáo Thạch M phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Thạch M 02 (hai) năm cải tạo không giam giữ. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 10.000.000 đồng (mười triều đồng) sung vào quỹ Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn gỗ kích thước 113cm x 9cm x 4,5cm, nặng 02kg; 01 mãnh kính bị vỡ hình tam giác, có số đo các cạnh là 13cm, 16cm, 22cm, trên mặt kính có ký hiệu CCC E000001, độ dày 0,7cm. Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện C đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/11/2019.

- Về án phí: Buộc bị cáo Thạch M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về