Bản án 02/2020/HS-ST ngày 08/01/2020 về tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 08/01/2020 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 01 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 222/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 245/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

1/- Trần Xuân M, sinh năm: 1991, tại: Thừa Thiên Huế; Hộ khẩu thường trú: tổ 2, phường H, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: thợ cơ khí; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Hồ Thị Th; Chưa có vợ; tiền án: không; tiền sự: không;Nhân thân; Ngày 07/4/2011 Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 11 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” (bản án số 10/2011/HSST) bị bắt tam giam ngày: 05/9/2019; (Có mặt).

2/- Huỳnh S, sinh năm: 1997, tại: Thừa Thiên Huế; Hộ khẩu thường trú: thôn L, xã Q, huyện Đ, tỉnh Thừa Thiên Huế; Chổ ở: ấp 5, xã V, huyện C, thành phố Hồ Chí minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh L và bà Hoàng Thị Q; Chưa có vợ; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tam giam ngày: 05/9/2019; (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Trần Xuân T, sinh năm 1990; Trú tại: tổ 2, phường H, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 00 giờ ngày 5/9/2019 tổ tuần tra Công an phường 9 phối hợp với tổ tuần tra 363 Công an quận Gò Vấp khi đi đến trước địa chỉ số 458 Phạm Văn Chiêu, phường 9, quận Gò vấp phát hiện hai thanh niên đi xe gắn máy có biểu hiện nghi vấn, tổ tuần tra yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện trong lòng bàn tay phải của người thanh niên ngồi sau có cầm 02 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu nghi là ma túy nên tổ tuần tra đã lập biên bản và niêm phong và đưa về trụ sở Côn an phường 9 lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Công an phường 9 và Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Gò Vấp, Huỳnh S và Trần Xuân M cùng khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 23 giờ 30 ngày 04/9/2019 khi S và M đang ngồi nhậu tại một quán ốc trên đường Lê Văn Thọ, quận Gò Vấp thì S có rủ M cùng đi mua ma tuý tổng hợp (hàng đá) về sử dụng chung thì M đồng ý. Do M biết chỗ bán ma tuý nên M điều khiển xe máy biển số 75D1 – 115.65 chở S ngồi phía sau cùng đi mua ma tuý. Khi M chở S đến khu vực chân cầu vượt An Sương, quận 12 thì gặp một nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) là người bán ma tuý. Lúc này, S bước xuống xe đứng cạnh M rồi S hỏi người thanh niên này mua ma tuý tổng hợp (hàng đá) với số tiền 500.000 đồng thì người này đồng ý và đưa lại cho S 02 (hai) gói nylon chứa ma tuý tổng hợp (hàng đá). S đưa cho người bán ma tuý số tiền 500.000 đồng và S cầm 02 gói nylon chứa ma tuý vừa mua xong trong lòng bàn tay phải rồi ngồi phía sau xe để M chở đi tìm nơi sử dụng (M nhìn thấy việc S mua được 02 gói nylon chứa ma tuý rồi cầm trong lòng bàn tay phải). Khi M chở S đến trước nhà số 458 đường Phạm Văn Chiêu, phường 9, quận Gò Vấp thì bị Công an dừng xe kiểm tra phát hiện S đang cầm trên tay phải 02 (hai) gói nylon chứa ma tuý mà M cùng S vừa mua nên thu giữ đưa M và S về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể không màu, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Huỳnh S, Trần Xuân M và hình dấu của Công an phường 9, quận Gò Vấp. Bản kết luận giám định số 1722/KlGĐ – H, ngày 10/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an TP.Hồ Chí Minh xác định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng: 0,1299 gam, loại Methamphetamine.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0333939358; 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0981920935 và 01 điện thoại di động hiệu Vertu không gắn sim.

- 01 xe máy biển số 75D1 – 115.65, số khung: RLHJC4305BY003043, số máy: IC43E0873621.Qua xác minh xe này do anh Trần Xuân T ( anh ruột Trần Xuân M) đứng tên chủ sở hữu, việc M dùng xe này chở S đi mua ma túy thì anh T không biết. Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng chuyển theo hồ sơ để xử lý chung.

Đối với người thanh niên (chưa rõ lai lịch) bán ma túy cho S và M chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa đề nghị xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào có đủ cơ sở đề nghị xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 02/CTr-VKS, ngày 05/12/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Trần Xuân M và Huỳnh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Trần Xuân M từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh S từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ.

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh S chiếc điện thoại di động Iphone số sim 0981920935 và 01 điện thoại hiệu Vertu không có sim.

- Trả lại cho bị cáo Trần Xuân M chiếc điện thoại Iphone số sim 0333939358.

- Trả lại cho anh Trần Xuân T chiếc xe gắn máy biển số 75D1 – 115.65.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Trần Xuân M và Huỳnh S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.

Mặc dù các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng, mua bán ...... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng các bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với các bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho các bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay các bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

[3] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên quyết định miễn phạt cho các bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu, đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh S và Trần Xuân M cùng với hình dấu Công an phường 9, quận Gò Vấp. Tại bản Kết luận giám định số 1722/KlGĐ – H, ngày 10/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an TP.Hồ Chí Minh xác định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng: 0,1299 gam, loại Methamphetamine, là chất nhà nước cấm lưu hành và sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0333939358; 01 điện thoại di động hiệu Iphone số sim: 0981920935 và 01 điện thoại di động hiệu Vertu không gắn sim là tư vật của các bị cáo không liên quan đến vụ án, Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

- Đối với một chiếc xe gắn máy có biển số 75D1 – 115.65, có số khung: RLHJC4305BY003043, số máy: IC43E0873621.Qua xác minh xe này do anh Trần Xuân T (anh ruột Trần Xuân M) đứng tên chủ sở hữu, việc M dùng xe này chở S đi mua ma túy thì anh T không biết. Hội đồng xét thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và không liên quan đến vụ án nên quyết định trả lại cho anh Trần Xuân T chiếc xe nói trên.

[5] Đối với đối tượng bán ma túy cho M và S Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Trần Xuân M và Huỳnh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Xuân M 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 05/9/2019.

Xử phạt bị cáo Huỳnh S 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 05/9/2019.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy 02 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu, đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh S và Trần Xuân M cùng với hình dấu Công an phường 9, quận Gò Vấp.

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh S chiếc điện thoại di động Iphone số sim 0981920935 và 01 điện thoại hiệu Vertu không có sim, bị cáo Trần Xuân M chiếc điện thoại Iphone số sim 0333939358.

- Trả lại cho anh Trần Xuân T chiếc xe máy có biển số 75D1 – 115.65, số khung: RLHJC4305BY003043, số máy: JC43E0873621.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 233/PNK, ngày 11/11/2019 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án; Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 08/01/2020 về tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về