Bản án 02/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 03/01/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 214/2019/TLST-HS, ngày 10 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 205/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST-HS, ngày 25/12/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Thị Thanh V (Tên gọi khác: không), sinh năm 1976 tại Hà Nội; Đăng ký hộ khẩu thường trú:Ngách 2C, ngõ 495/19, B.Đ, phường Ch.D quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: thôn Trân Tảo, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn) 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Quang, sinh năm 1948 và bà Trần Kim Hòa, sinh năm 1954; Chồng: không có; Con: có 01 con sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự: không có; Bắt quả tang ngày 23/9/2019, tạm giữ ngày 24/9/2019 chuyển tạm giam ngày 03/10/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam tại trại giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Quang H (tên gọi khác: không), sinh năm 1976 tại Hà Nội; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: thôn P.T, xã P.Th, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn) 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Hằng (đã chết) và bà Đào Thị Thìn, sinh năm 1952; Vợ, con: không có; Tiền án, tiền sự: không có; Nhân thân: Bản án số 295 ngày 28/10/2005 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử Nguyễn Quang H 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/4/2007. Ngày 27/10/2006 Nguyễn Quang H đã nộp án phí sơ thẩm 50.000 đồng; Bản án số 98 ngày 28,29/8/2008 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xử Nguyễn Quang H 18 tháng tù về tội Đánh bạc (Tổng số tiền đánh bạc: 2.150.000 đồng); Bị cáo bắt ngày 23/9/2019, tạm giữ ngày 24/9/2019, chuyển tạm giam ngày 03/10/2019. Bị cáo hiện đang tạm giam tại trại giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

- Anh Nguyễn Huy C, sinh năm 1980; Trú tại: thôn Vàng 3, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. (vắng mặt tại phiên tòa).

- Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1993; Trú tại: thôn thôn Kim Âu, xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H có quan hệ tình cảm với nhau được khoảng 03 tháng và đều là đối tượng nghiện ma túy. Sáng ngày 21/9/2019, V đi sang Hà Nội sử dụng ma túy cùng đối tượng tên Ng không rõ nhân thân, sau khi sử dụng ma túy thì Ng cho V 01 túi ma túy đá về sử dụng. V đi xe máy về nhà tại Trân Tảo, Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Khoảng 18 giờ ngày cùng ngày, V và H cùng nhau thuê phòng 201 nhà nghỉ Sắc Màu của chị Cao Thị Nhở tổ dân phố Kiên Tr, thị trấn Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội để ở. Tại phòng 201, V và H lấy một phần ma túy đá Ng cho để sử dụng.

Khong 11 giờ ngày 22/9/2019, Nguyễn Văn Đ, sinh 1993 trú tại Kim Âu, Đặng Xá, Gia Lâm, Hà Nội rủ Nguyễn Huy C, sinh 1980 trú tại thôn Vàng, Cổ Bi, Gia Lâm, đi mua ma túy về sử dụng, thỏa thuận mỗi người góp 100.000 đồng. C đồng ý, Đ lấy điện thoại của C, có số thuê bao 0336198382 gọi vào số điện thoại của H có số thuê bao 0944791976 hỏi mua 200.000đ ma túy đá, H đồng ý và hẹn Đ lên phòng 201 nhà nghỉ Sắc Màu lấy ma túy. H nói lại với V việc Đ hỏi mua ma túy thì V đồng ý bán ma túy cho Đ, V chia gói ma túy Ng cho ra cho vào một túi ni lông màu trắng để trên bàn uống nước. Khoảng 05 phút sau, Đ đến phòng 201, H lấy ma túy đưa cho Đ và cầm 200.000đ đưa lại cho V. Đến khoảng 18 giờ ngày 22/9/2019 thì C gọi điện cho H (giới thiệu tên To) hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. H hỏi V thì V đồng ý bán cho C và hẹn C lên phòng 201 nhà nghỉ Sắc Mầu để đưa ma túy. Khoảng 05 phút thì C đến phòng 201 thì H đi ra mở cửa và quay lại giường còn V lấy 01 gói ma túy đá còn lại do Ng cho bán cho C và cầm 300.000 đồng. Đến khoảng 20 giờ ngày 22/9/2019, H điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHANOVO BKS 29V9 – 9596 chở V lên thị trấn Yên Viên, Gia Lâm mua của người đàn ông tên Tr (Bốp) không rõ nhân thân mua 1.500.000 đồng ma túy Methamphetamine mục đích mang về bán để kiếm lời, Tr cho V thêm 02 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy loại Methamphetamine. V trả cho Tr số tiền 1.100.000đ và nợ lại Tr 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì H điều khiển xe máy chở V về phòng 201 nhà nghỉ Sắc Màu. Khi về đến phòng thì V và H lấy một phần ma túy vừa mua được để cùng sử dụng bằng hình thức cho ma túy đá vào bộ dụng cụ tự tạo đốt qua tẩu rồi hút và chia ma tuý thành 03 gói. Đến khoảng 15 giờ ngày 23/9/2019 thì Đ điện thoại cho H hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, H đồng ý bán và hẹn Đ lên phòng 201 nhà nghỉ Sắc Màu. Một lúc sau thì Đ đến phòng 201, V lấy một gói ma túy loại Methamphetamine để sẵn trên bàn đưa cho H để H bán cho Đ và cầm 300.000 đồng đưa lại cho V. Khoảng 15 giờ 30 ngày 23/9/2019, C gọi điện cho H hỏi mua 600.000 đồng ma túy đá, H có nói lại cho V biết việc C hỏi mua ma túy đá thì V bảo H “Cứ đi ra xem nó như thế nào rồi quay lại phòng lấy ma túy bán”. Sau đó, H hẹn C ra cây xăng thuộc tổ dân phố Kiên Tr, thị trấn Trâu Quỳ, Gia Lâm để lấy 600.000 đồng tiền mua ma túy, khi H đang đứng đợi C thì bị công an kiểm tra bắt giữ.

Hi 17 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, đội CSĐTTP về Ma túy- Công an huyện Gia Lâm kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ Sắc Màu thuộc tổ dân phố Kiên Tr, Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội. Quá trình kiểm tra phát hiện tại trong phòng 201 của nhà nghỉ, phát hiện Phạm Thị Thanh V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác thu giữ vật chứng đưa đối tượng về trụ sở Công an huyện Gia Lâm lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

Thu giữ của Nguyễn Quang H: Số tiền 57.000 đồng, 01 điện thoại di động NOKIA 515 màu trắng, vàng, bên trong có lắp sim liên lạc; 01 điện thoại di động màu trắng đen hiệu Xiaomi, bên trong không lắp sim liên lạc; 01 xe máy YAMAHA NOVO BKS 29V9 – 9596 , số khung: 123668, Số máy123668 xe cũ, đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký xe tên Đinh Vạn Ch, số đăng ký 29V9 – 9596.

Vt chứng thu giữ của Phạm Thị Thanh V: 01 bộ tẩu tự tạo để sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động NOKIA màu vàng, trong có lắp sim liên lạc; 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, xanh, không lắp sim; 01 điện thoại di động Xiaomi màu trắng vàng, bên trong có lắp sim liên lạc; Số tiền 1.054.000 đồng; 01 kính đeo mắt màu đen; 01 chiếc đồng hồ đeo tay bằng kim loại.

- 01 túi nilon màu hồng kích thước khoảng 25x15 cm bên trong có 01 túi nilon màu xanh kích thước 6x8 cm chứa: 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 2x1 cm bên trong có chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng; 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 2x2 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 3x6 cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng.

Tại kết luận giám định số 6058/KLGĐ-PC09 ngày 01/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- 02 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 túi nilông kích thước (2x1)cm đều là ma túy loai Methamphetamine, tổng khối lượng 0,190 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước (2x2)cm là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,330 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước (3x6)cm là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 4,250 gam.

- 01 bổ tẩu hút tự tạo có dính ma túy loại Methamphetamine.

Vt chứng thu giữ của Nguyễn Văn Đ: 01 điện thoại di động màu xanh bên trong lắp sim liên lạc 0362681042.

Vt chứng thu giữ của Nguyễn Huy C: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bên trong lắp sim liên lạc 0336198382.

Ngày 24/9/2019, Cơ quan điều tra – Công an huyện Gia Lâm đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở Phạm Thị Thanh V ở thôn Tr.T, xã Ph.Th, Gia Lâm và nơi ở của Nguyễn Quang H ở thôn Phúy Thụy, Phú Thị, Gia Lâm nH không phát hiện thu giữ đồ vật tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Quá trình điều tra đến ngày 22/11/2019, H thay đổi lời khai thể hiện: Ngày 22/9/2019 H không bán ma túy cho Đ và đối tượng giới thiệu tên To (C). V bảo H chở V đến ngã 5 thị trấn Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội để gặp đối tượng không rõ nhân thân tên Bốp, V đi vào ngõ nhỏ còn H đứng ngoài đợi, sau đó V đi ra bảo H chở về nhà nghỉ Sắc Màu. Ngày 23/9/2019, H không bán ma túy cho ai nH To (C) có điện thoại cho H hỏi mua hộ 600.000 đồng ma túy đá. To bảo H đi đến ở cây xăng tổ dân phố Kiến Tr thị trấn Trâu Quỳ để lấy tiền. Khi H đang đứng đợi To (C) thì bị Công an kiểm tra, bắt giữ.

Tại bản cáo trạng số 204/CT-VKSGL, ngày 30/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Phạm Thị Thanh V và bị cáo Nguyễn Quang H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà:

Bị cáo Phạm Thị Thanh V đã khai nhận về hành vi bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại cơ quan điều tra và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Đi với bị cáo Nguyễn Quang H: Bị cáo chỉ thừa nhận bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ vào trưa ngày 22/9/2019. H không nhận có hành vi bán ma túy cho Nguyễn Huy C (To) vào khoảng 17 giờ 30, ngày 22/9/2019 và không nhận bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ vào trưa ngày 23/9/2019. Bị cáo khai chưa được cơ quan Công an giao nhận thông báo kết luận giám định. Tại Kết luận điều tra thể hiện Nguyễn Huy C và Nguyễn Văn Đ bị cơ quan công an mời đến làm việc vào tối ngày 21/9/2019, trước khi H và V bị cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ. Vì vậy lời khai của Đ và C nên không có căn cứ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Huy C và Nguyễn Văn Đ vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm trình bày luận tội: Căn cứ vào những lời khai ban đầu của Nguyễn Quang H phù hợp với lời khai của: bị cáo V, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Huy C, chị Cao Thị Nh(chủ quản lý nhà nghỉ Sắc Mầu), biên bản kiểm tra điện thoại và đối chất giữa H và V tại phiên tòa, Viện kiểm sát có đủ cơ sở khẳng định: Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H đã có hành vi bán trái phép ma túy cho Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Huy C ngày 22/9/2019 và cho Nguyễn Văn Đ ngày 23/9/2019. Vì vậy việc truy tố bị cáo Phạm Thị Thanh V và bị cáo Nguyễn Quang H theo điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Bản cáo trạng đã truy tố các bị cáo, trên cơ sở xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Thị Thanh V và bị cáo Nguyễn Quang H phạm tội mua bán trái phép chất ma túy:

Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 58; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với Phạm Thị Thanh V; Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251; Điều 58; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Quang H Đề nghị xử phạt Phạm Thị Thanh V từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 23/9/2019.

Đề nghị xử phạt Nguyễn Quang H từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 23/9/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo là đối tượng nghiện, không có tài sản tích lũy, không có nghề nghiệp ổn định.

Về vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilong nhỏ màu hồng, bên trong có 01 túi nilong có: 02 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,10 gam (do đã trích mẫu 0,090 gam để giám định; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước (2x2)cm là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,260 gam (do đã trích mẫu 0,070 gam để giám định); Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước (3x6) cm là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 3,990 gam (đã trích mẫu 0,260 gam để giám định) và 01 bộ tẩu hút tự tạo thu giữ của Phạm Thị Thanh V.

- Tịch thu xung công quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu vàng có lắp sim liên lạc thu giữ của Phạm Thị Thanh V, do V sử dụng để liên lạc trao đổi mua bán ma túy; 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu trắng vàng, có lắp sim liên lạc thu giữ của Nguyễn Quang H do H sử dụng liên lạc, trao đổi mua bán ma túy; 01 chiếc điện thoại di động màu xanh, có lắp sim liên lạc thu giữ của Nguyễn Văn Đ, Đ sử dụng điện thoại này để liên lạc mua ma túy; 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu đen xanh, không lắp sim thu giữ của Nguyễn Huy C, C đã sử dụng liên lạc mua ma túy và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, mang biển kiểm soát: 29V9 - 9596, màu đỏ đen, số khung: 123668, số máy: 123668, xe cũ đã qua sử dụng cùng 01 đăng ký xe mang tên Đinh Vạn Ch:

Trả lại:

+ 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi, màu trắng vàng và 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen cho Phạm Thị Thanh V do không liên quan đến hành vi phạm tội.

+ 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi, màu đen trắng; 01 kính đeo mắt màu đen; 01chiếc đồng hồ đeo tay bằng kim loại và 57.000 đồng trả lại cho Nguyễn Quang H do không liên quan đến hành vi phạm tội.

+ Đối với số tiền 1.054.000 đồng thu giữ của Phạm Thị Thanh V, trong đó có 800.000 đồng là tiền V thu được từ việc bán ma túy nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Số tiền còn lại là 254.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội trả lại cho V nH tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Lời nói sau cùng bị cáo V xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội. Bị cáo H xin HĐXX xem xét cho bị cáo chỉ bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ 01 lần vào ngày 22/9/2019.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2]. Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

Lời khai của bị cáo Phạm Thị Thanh V tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người liên quan đến vụ án, biên bản kiểm tra điện thoại, phù hợp với vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đi với Nguyễn Quang H: Quá trình điều tra, lời khai ban đầu H khai nhận phù hợp với lời khai của bị cáo V, phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Huy C, Biên bản kiểm tra điện thoại và vật chứng thu giữ. Đến ngày 22/11/2019, bị cáo thay đổi lời khai không thừa nhận cùng với V bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Huy C, không thừa nhận cùng sử dụng ma túy với V. Lý do H thay đổi lời khai là do bị cáo sử dụng ma túy lúc tỉnh, lúc mê nên đến nay H không nhớ được gì. Quá trình bị tạm giữ, tạm giam để điều tra cũng như tại phiên tòa, H thừa nhận không ai đánh đập, không bị ai ép cung, bức cung, sức khỏe bình thường. Các bản khai H đều đã được đọc lại và công nhận ghi đúng lời khai của mình. H thừa nhận sử dụng số điền thoại là 094.479.1976 để liên lạc. Cơ quan điều tra cũng như Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đã tiến hành lấy lời khai của H các ngày: 23/9/2019 ()BL 200-203), 24/9/2019 (BL 204 – 205, 206 - 207), 25/9/2019 (BL 208 - 211), 25/9/2019 (BL 212 - 245), 26/9/2019 (BL 218 – 221), 01/10/2019 (BL 222 – 224), 02/10/2019 (BL 226 – 229) và các Bản kiểm điểm do H tự viết (BL 240 – 241; 243), bị cáo đều thừa nhận đã cùng với V bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ trưa ngày 22/9/2019, giá 200.000 đồng, bán ma túy cho To (C) vào khoảng 19 giờ ngày 22/9/2019 với giá 300.000 đồng và bán cho Đ vào khoảng 15 giờ ngày 23/9/2019 với giá 300.000 đồng và khi To hẹn mua ma túy của H số tiền 600.000 đồng nH chưa kịp giao thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ. Tại các biên bản kiểm tra điện thoại của H, Đ, C đều thể hiện có liên lạc với nhau phù hợp với lời khai của H, Đ và C. Lời khai ban đầu của H phù hợp với lời khai của bị cáo V, phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Huy C, phù hợp với biên bản thu giữ và kiểm tra điện thoại của Đ, C, H và phù hợp với đối chất giữa H và V tại phiên tòa. Khi cơ quan điều tra cho nhận dạng thì V, Đ, C nhận ra nhau, Đ, C nhận ra H. Vì vậy việc H thay đổi lời khai và lý do H thay đổi lời khai là không khách quan và không có căn cứ.

Đi với việc H trình bày là tại kết luận điều tra có ghi tối 21/9/2019 (là trước khi H và V bị bắt) thì Đ và C đã đến cơ quan Công an khai nhận toàn bộ sự việc mua bán ma túy với V và H là không đúng: Hội đồng xét xử thấy toàn bộ hồ sơ không có lời khai nào của Đ và C vào ngày cũng như tối 21/9/2019.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 22/9/2019, tại phòng 201 nhà nghỉ Sắc Màu thuộc tổ dân phố Kiên Tr, thị trấn Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội, Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H có hành vi bán trái phép 01 gói ma tuý Methamphetamine cho Nguyễn Văn Đ với giá 200.000 đồng và Nguyễn Huy C 01 gói ma tuý Methamphetamine với giá 300.000 đồng. Đến ngày 23/9/2019, V và H lại tiếp tục bán cho Nguyễn Văn Đ 01 gói ma tuý Methamphetamine với giá 300.000 đồng để kiếm lợi. Còn 4,770 gam ma tuý Methamphetamine cất giữ tại phòng 201 nhà nghỉ Sắc Màu chưa kịp bán thì bị cơ quan Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

Hành vi Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H bán ma túy loại Methamphetamine 1 lần cho Nguyễn Văn Đ và 1 lần cho Nguyễn Huy C vào ngày 22/9/2019 và bán 1 lần cho Đ vào ngày 23/9/2019 với mục đích kiếm lời, còn 4,770 gam ma tuý Methamphetamine chưa kịp bán thì bị bắt giữ đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 251 - Bộ luật hình sự.

Đây là vụ án đồng phạm, Phạm Thị Thanh V là người khởi xướng, thực hành và Nguyễn Quang H thực hành tích cực.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố các bị cáo Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Về hình phạt và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ:

Đi với bị cáo Phạm Thị Thanh V: Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ là tình tiết thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự, lần đầu bị đưa ra truy tố xét xử. Vì vậy bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, lấy đó làm căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đi với bị cáo Nguyễn Quang H: Quá trình điều tra ban đầu, bị cáo thành khẩn tuy nhiên sau đó và tại phiên tòa, bị cáo không thừa nhận hành vi bán ma túy cho C ngày 22/9/2019 và bán ma túy cho Đ ngày 23/9/2019 nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo. Nhân thân bị cáo đã có tiền án tuy đã được xóa nH thể hiện có nhân thân xấu. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo H với mức hình phạt nghiêm khắc trong khung hình phạt và bằng với mức án của bị cáo V.

Xét tính chất vụ án rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã cố ý xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước được Bộ luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, vì vậy cần phải nghiêm trị đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dụng và phòng ngừa chung.

[4]. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đề nghị áp dụng đối với các bị cáo phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản tích lũy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7]. Đối với hành vi của Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Huy C là người mua ma túy của H và V để sử dụng, cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính đối với Đ và C là đúng quy định của pháp luật.

[8]. Đối với đối tượng cho V ma túy và đối tượng bán ma túy cho bị V, do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[9]. Đối với việc bị cáo H khai chưa được thông báo kết luận giám định: tại biên bản giao, nhận thông báo kết luận giám định (BL số 79) thể hiện cơ quan điều tra đã giao nhận thông báo kết luận giám định cho bị cáo H, bị cáo không có ý kiến gì và đã ký, ghi rõ họ tên. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận là chữ ký và chữ viết của mình. Vì vậy không có căn cứ khẳng định bị cáo chưa được giao nhận Thông báo kết luận giám định như bị cáo trình bày tại phiên tòa

[10]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilong nhỏ màu hồng, bên trong có 01 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine do phòng PC09 - CATP Hà Nội đã trích mẫu và hoàn lại sau giám định có: 02 viên nén hình tròn màu hồng có khối lượng 0,10 gam (đã trích mẫu 0,090 gam); 01 túi nilông kích thước (2x2)cm trong là ma túy có khối lượng 0,260 gam (đã trích mẫu 0,070 gam); 01 túi nilông kích thước (3x6) cm là ma túy có khối lượng 3,990 gam (đã trích mẫu 0,260 gam) và 01 bộ tẩu hút tự tạo thu giữ của Phạm Thị Thanh V.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu vàng, bên trong lắp sim liên lạc thu giữ của Phạm Thị Thanh V, V sử dụng để liên lạc trao đổi mua bán ma túy; 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu trắng vàng, bên trong lắp sim liên lạc thu giữ của Nguyễn Quang H do H sử dụng liên lạc, trao đổi mua bán ma túy; 01 chiếc điện thoại di động màu xanh, bên trong lắp sim liên lạc thu giữ của Nguyễn Văn Đ, Đ sử dụng điện thoại này để liên lạc mua ma túy; 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu đen xanh, bên trong không lắp sim thu giữ của Nguyễn Huy C, C đã sử dụng liên lạc mua ma túy và 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, mang biển kiểm soát: 29V9 - 9596, màu đỏ đen cùng 01 đăng ký xe mang tên Đinh Vạn Ch do liên quan đến hành vi mua ma túy.

Trả lại:

+ 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi, màu trắng vàng, bên trong lắp sim liên lạc và 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen, bên trong không lắp sim liên lạc trả lại cho Phạm Thị Thanh V do không liên quan đến hành vi phạm tội.

+ 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi, màu đen trắng, bên trong không lắp sim liên lạc; 01 kính đeo mắt màu đen; 01chiếc đồng hồ đeo tay bằng kim loại và 57.000 đồng cho Nguyễn Quang H do không liên quan đến hành vi phạm tội.

+ Đối với số tiền 1.054.000 đồng thu giữ của Phạm Thị Thanh V, trong đó có 800.000 đồng là tiền V thu được từ việc bán ma túy trong hai ngày 22 và 23 tháng 9/2019 cho tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Số tiền còn lại là 254.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội trả lại cho V nH tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[11]. Về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo: các bị cáo Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Thị Thanh V;

Căn cứ: điểm b,c khoản 2 Điều 251; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Quang H;

Căn cứ: Điều 331, Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ: Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ: khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tu yên b ố các bị cáo Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạ t: Phạm Thị Thanh V 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 23/9/2019.

Xử phạt: Nguyễn Quang H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 23/9/2019.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với hai bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Tch thu tiêu hủy:

+ 01 túi nilong nhỏ màu hồng, bên trong có 01 túi nilong có: 02 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,10 gam; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước (2x2)cm là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,260 gam; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước (3x6) cm là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 3,990 gam.

+ 01 bộ tẩu hút tự tạo có chữ ký xác nhận niêm phong của Giám định viên, C bộ niêm phong và của Phạm Thị Thanh V.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

+ 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu vàng, bên trong lắp sim liên lạc

+ 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu trắng vàng, bên trong lắp sim liên lạc.

+ 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen, bên trong lắp sim liên lạc

+ 01 chiếc điện thoại di động màu xanh, bên trong lắp sim liên lạc

+ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, mang biển kiểm soát: 29V9 - 9596, màu đỏ đen, số khung: 123668, số máy: 123668, xe cũ đã qua sử dụng cùng 01 đăng ký xe mang tên Đinh Vạn Ch.

+ Số tiền 800.000 đồng (trong 1.054.000 đồng) Trả lại:

+ 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi, màu trắng vàng, bên trong lắp sim liên lạc và 01 điện thoại di động Nokia màu đen xanh, bên trong không lắp sim cho bị cáo Phạm Thị Thanh V.

+ 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi, màu đen trắng, bên trong không lắp sim liên lạc; 01 kính đeo mắt màu đen; 01chiếc đồng hồ đeo tay bằng kim loại và 57.000 đồng trả lại cho Nguyễn Quang H.

+ Trả lại cho Phạm Thị Thanh V 254.000 đồng (trong số 1.054.000 đồng) nH tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 24/12/2019 và Biên lai thu tiền số AA/2010/0001752, ngày 24/12/2019.

Về án phí: Các bị cáo Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm. Báo cho: các bị cáo Phạm Thị Thanh V và Nguyễn Quang H có mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Huy C vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết đinh được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về