Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 09/01/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LX, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 09 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LX, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 621/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 318/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 276/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11/12/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977. Địa chỉ: Số x/y, khóm Đ5, phường B, thành phố LX, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1978. Địa chỉ: Số x/y, khóm Đ5, phường B, thành phố LX, tỉnh An Giang.

c đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2019 và tại biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Đức H được người thân trong gia đình mai mối. Ông bà tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào ngày 26/10/1996 và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện C ngày 22/7/2005. Hôn nhân lần thứ nhất của hai vợ chồng bà. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà chung sống bên gia đình chồng ở xã B, huyện C được 03 tháng thì về quê nhà của bà tại phường B. Do ông H không tôn trọng vợ, con và cha mẹ vợ nên gia đình bà phải tìm nơi khác để ở. Tuy nhiên, sau đó ông bà tiếp tục về phường Đsinh sống cho đến nay. Ông H làm nghề lái xe buýt, bà thì buôn bán bắp nấu ở chợ. Ông bà có tạo lập được tài sản là căn nhà hiện nay đang ở. Quá trình chung sống, ông H thường xuyên nhậu nhẹt, chửi bới, xua đuổi vợ con, nhiều lần công khai mối quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài. Nhận thấy, hôn nhân không còn mang lại hạnh phúc nên bà yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Bà và ông H có 02 (Hai) con chung tên Nguyễn Văn P sinh năm 1997 đã trưởng thành và có khả năng lao động, Nguyễn Thị Ngọc D sinh ngày 01/02/2003 đang sống chung với vợ chồng bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đức H là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố LX thụ lý giải quyết.

[2] Xét thấy, căn cứ vào đơn xin xác nhận tạm trú ngày 06/9/2019 được Công an phường Đxác định ông Nguyễn Đức H có đăng ký tạm trú tại địa chỉ là số x/y, khóm Đ5, phường B, thành phố LX đã đủ cơ sở để xác định ông H có nơi cư trú hợp pháp là địa chỉ trên. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định của các Điều 176 và 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, ông H tiếp tục vắng mặt lần thứ hai, không lý do. Bà T có đơn đề ngày 11/12/2019 về việc đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Đức H tự nguyện tiến đến hôn nhân và được y ban nhân dân xã B, huyện C cấp Giấy Chứng nhận kết hôn số 78/BH, quyển số 01/2005, ngày 22/7/2005, nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

[4] Bà T cho rằng, quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, do ông H thường xuyên nhậu nhẹt và nhiều lần công khai quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài. Phía ông H được Tòa án nhiều lần tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng. Tuy nhiên, ông H vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà T và không đến tham gia hòa giải. Như vậy, ông H đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.

[5] Sau khi thụ lý yêu cầu khởi kiện của bà T, Tòa án tạo thêm thời gian dài để bà T và ông H có cơ hội để hàn gắn tình cảm. Đến nay, bà T vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn. Từ đó, có thể nhận thấy tình cảm của bà dành cho chồng không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông bà đã trầm trọng. Xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà T và ông H không đạt được, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà T được ly hôn ông H.

[6] Về con chung: Bà T trình bày, bà và ông H có 02 (Hai) con chung tên Nguyễn Văn P sinh năm 1997 đã trưởng thành và có khả năng lao động, Nguyễn Thị Ngọc D sinh ngày 01/02/2003. Lời khai của bà T phù hợp với bản sao giấy khai sinh số 05 ngày 14/8/2001 và bản sao giấy khai sinh số 154 ngày 22/7/2005 do y ban nhân dân xã B cấp. Xét thấy, con chung chưa trưởng thành là cháu D có nguyện vọng được sống với mẹ, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc nuôi dưỡng cháu D khi ly hôn.

[7] Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về tài sản chung và nợ chung: Do không có ý kiến của ông H về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét đến. Sau này, các bên phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[9] Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình. Do bà T đã nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0014362 ngày 25/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 176, Điều 179, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Đức H.

- Về con chung: Bà T và ông H có 02 (Hai) con chung tên Nguyễn Văn P sinh năm 1997 đã trưởng thành và có khả năng lao động, Nguyễn Thị Ngọc D sinh ngày 01/02/2003.

Bà T được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung chưa trưởng thành là cháu Nguyễn Thị Ngọc D.

Bà T cùng các thành viên trong gia đình phải tạo điều kiện cho ông H được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

- Về chi phí cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình. Do bà T đã nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0014362 ngày 25/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Bà T và ông H được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 09/01/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:02/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về