Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 06/01/2020 về ly hôn giữa bà L và ông V

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2020 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ L VÀ ÔNG V

Ngày 06 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 686/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXX-ST ngày 17 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị L, sinh năm 1966; Cư trú tại: , ấp M, xã P, huyện T, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Vương Văn V, sinh năm 1966; Cư trú tại: , ấp M, xã P, huyện T, tỉnh Bến Tre. Bà L có mặt, ông V vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Hồ Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Vương Văn V cưới nhau vào năm 1986, hôn nhân do ông bà tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 1993 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường hay cãi nhau. Nguyên nhân là do ông V không lo làm ăn mà thường xuyên nhậu say về chửi mắng, đánh đập bà. Bà thương con nên cố gắng chịu đựng. Từ năm 2010, ông V thường đi theo xà lan làm việc nhưng mỗi khi về nhà lại kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập bà. Đến tháng 11/2019 vừa qua, ông V cầm dao đe dọa giết bà, hai bên xảy ra xô xát phải nhờ chính quyền địa phương can thiệp. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng giữa bà với ông V không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông V.

Về con chung: Có 02 con chung tên Vương Công T, sinh ngày 28/02/1987 và Vương Thị Ngọc H, sinh ngày 21/5/1990, hai con chung đã trưởng thành và có gia đình riêng bên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà và ông V không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản làm việc ngày 17/12/2019 của Tòa án, bị đơn ông Vương Văn V trình bày:

Về hôn nhân: Ông thừa nhận thời gian ông và bà Hồ Thị L kết hôn, thời gian chung sống và nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn như bà L trình bày là đúng. Trong cuộc sống, vợ chồng thỉnh thoảng có cãi nhau, có khi có xô xát đánh nhau do hai bên đều nóng tính. Ông nhận thấy vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. Vợ chồng đã chung sống hơn 30 năm nhưng nay bà L lại nộp đơn ly hôn. Ông còn thương vợ nên không muốn ly hôn, nếu bà L cương quyết ly hôn thì ông đồng ý để Tòa án xét xử theo quy định.

Về con chung: Có 02 con chung tên Vương Công T, sinh ngày 28/02/1987 và Vương Thị Ngọc H, sinh ngày 21/5/1990, hai con chung đã trưởng thành và có gia đình riêng bên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do ông bận việc và cũng không muốn đến Tòa án nên ông đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông.

Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến: Về tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký và người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo quy định của pháp luật. Về nội dung: Bà L và ông V không đăng ký kết hôn nhưng ông bà chung sống với nhau từ năm 1986 nên hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp theo điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có xảy ra xô xát, đánh nhau nên bà L yêu cầu ly hôn. Ông V không đồng ý ly hôn nhưng ông đến Tòa để tham gia hòa giải và cũng không có phương án hàn gắn tình cảm vợ chồng; điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L và ông V đã trầm trọng, hôn nhân có kéo dài cũng không hạnh phúc nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L. Về con chung có 02 con chung đều đã trường thành; tài sản chung và nợ chung bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Tòa án ghi nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa bà Hồ Thị L và ông Vương Văn V là tranh chấp về ly hôn, bị đơn ông V hiện đang cư trú tại xã P, huyện T, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Ông V xin vắng mặt trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông V.

[2] Về hôn nhân: Bà Hồ Thị L và ông Vương Văn V chung sống với nhau từ năm 1986, ông bà không có đăng ký kết hôn nhưng căn cứ theo điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội thì quan hệ hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian sống chung, bà L và ông V phát sinh mâu thuẫn dẫn đến xô xát, chính quyền địa phương phải đến can thiệp. Tại tòa, bà L cương quyết ly hôn, ông V không đồng ý ly hôn nhưng ông không đến Tòa để Tòa án hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/12/2019 của Tòa án, chị H là con của bà L và ông V cũng xác định nếu bà L và ông V tiếp tục chung sống sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của bà L. Từ đó có cơ sở để xác định, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L và ông V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì quan hệ hôn nhân này sẽ ảnh hưởng đến đời sống bình thường của các thành viên trong gia đình nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà L.

[3] Về con chung: Bà L và ông V có 02 con chung tên Vương Công T, sinh ngày 28/02/1987 và Vương Thị Ngọc H, sinh ngày 21/5/1990, hai con chung đã trưởng thành và có gia đình riêng; bà L và ông V không yêu cầu Tòa án xem xét nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Bà L và ông V không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

Về nợ chung: Bà L và ông V cùng khai là không có nên Tòa án không xem xét.

[5] Về án phí: Bà L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng.

[6] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Hồ Thị L ly hôn với ông Vương Văn V.

2. Về con chung: có 02 con chung tên Vương Công T, sinh ngày 28/02/1987 và Vương Thị Ngọc H, sinh ngày 21/5/1990, hai con chung đã trưởng thành.

3. Về tài sản chung: Bà L và ông V tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét. Về nợ chung: Bà L và ông V khai không có nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà L đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007209 ngày 28/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Đương sự đã nộp đủ án phí.

Bà L có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông V vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 06/01/2020 về ly hôn giữa bà L và ông V

Số hiệu:02/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về