Bản án 02/2020/DS-ST ngày 09/10/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 02/2020/DS-ST NGÀY 09/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 09 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 04/2020/TLST-DS ngày 21 tháng 7 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2020/QĐST - DS ngày 25/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng AĐại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn Th - Chức vụ: Tổng giám đốc. Địa chỉ: Số A, Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Chi nhánh thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Địa chỉ: Số 42 đường Trần Phú, phường Bắc Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Mạnh H - Chức vụ: Phó Giám đốc (có mặt).

Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1984 Trú tại: Tổ dân phố A, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 06/7/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

Hợp đồng tín dụng số 3702LAV201900549/HĐTD ngày 15 tháng 3 năm 2019 đã ký giữa Ngân hàng A - Chi nhánh thị xã Hồng Lĩnh với chị Trần Thị H có nội dung: Số tiền cho vay: 350.000.000đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng chẵn). Thời hạn vay 12 tháng. Mục đích vay: Kinh doanh hàng tạp hóa. Dư nợ gốc cấp tín dụng là: 350.000.000đ (Ba trăm năm mươi triệu đồng chẵn).

Để bảo đảm cho khoản vay giữa Ngân hàng và chị Trần Thị H, đã ký hợp đồng thế chấp số 201900269/HĐTC ký ngày 14 tháng 3 năm 2019. Cụ thể: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là nhà ở cấp 4. Giá trị tài sản là: 472.600.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi hai triệu sáu trăm ngàn đồng). Địa chỉ thửa đất: Tổ dân phố 7, Phường Nam Hồng, thị Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY507086 do UBND thị xã Hồng Lĩnh cấp ngày 01 tháng 9 năm 2015, diện tích thửa đất 124,2 m2; Thửa đất số 113; Tờ bản đồ số 42; Mang tên: Trần Thị H.

Tính đến hết ngày 6 tháng 7 năm 2020, tổng dư nợ của chị Trần Thị H tại Ngân hàng A Chi nhánh Hồng Lĩnh tạm tính (do nợ lãi vẫn tiếp tục phát sinh) là: 395.821.233 đồng (Bằng chữ: Ba trăm chín mươi lăm triệu tám trăm hai mươi mốt ngàn hai trăm ba mươi ba đồng) Trong đó: Nợ gốc: 350.000.000 đồng. Nợ lãi trong hạn: 30.426.027 đồng. Nợ lãi quá hạn: 15.395.206 đồng Ngân hàng A đã nhiều lần làm việc trực tiếp và có văn bản yêu cầu chị Trần Thị H thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng số 3702LAV201900549. Tuy nhiên, tính đến nay, chị Trần Thị H vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả toàn bộ nợ gốc, nợ lãi cho A, liên tiếp vi phạm nghĩa vụ đã cam kết với A, cố tình không hợp tác, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, không phối hợp xử lý tài sản bảo đảm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của A gây khó khăn lớn cho công tác thu hồi vốn của Nhà nước và quá trình xử lý, thu hồi nợ của A Căn cứ các nội dung nêu trên, A, tỉnh Hà Tĩnh yêu cầu Tòa án tuyên buộc như sau:

1. Tuyên buộc chị Trần Thị H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho A toàn bộ số tiền tạm tính (do nợ lãi vẫn tiếp tục phát sinh) đến hết ngày 6 tháng 7 năm 2020 là: 395.821.233 đồng (Bằng chữ: Ba trăm chín mươi lăm triệu, tám trăm hai mươi mốt ngàn, hai trăm ba mươi ba đồng). Trong đó: Nợ gốc: 350.000.000 đồng. Nợ lãi trong hạn: 30.426.027 đồng. Nợ lãi quá hạn: 15.395.206 đồng.

2. Tuyên buộc chị Trần Thị H phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi suất đã thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng số 3702LAV201900549, kể từ ngày tiếp theo của ngày Tòa án ra bản án cho đến ngày thực tế chị Trần Thị H trả hết nợ gốc cho A.

3. Tuyên nếu chị Trần Thị H không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm của chị Trần Thị H theo hợp đồng thế chấp số 201900269/HĐTC ngày 14 tháng 3 năm 2019 để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

4. Tuyên nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu, sử dụng của chị Trần Thị H để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, có ý kiến: Buộc chị Trần Thị H phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày 09/10/2020 là 408.893.493 đồng: Trong đó nợ gốc: 350.000.000 đồng. Lãi trong hạn 49.465.068 đồng, lãi quá hạn 9.428.425 đồng và phát sinh cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng.

Trong trường hợp chị Trần Thị H không trả được nợ, cho phát mãi ngay toàn bộ tài sản bảo đảm gồm toàn bộ nhà và đất ở nêu trên để thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng (dùng cho khách hàng cá nhân) đã ký và toàn bộ lãi, phí phát sinh cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định.

Buộc chị Trần Thị H phải chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ án phí, phí thi hành án, chi phí phát sinh liên quan.

Trường hợp sau khi bán tài sản đảm bảo mà không đủ bù đắp số tiền vốn gốc nợ vay, tiền lãi vay, lãi phạt có liên quan, chi phí Tòa án, chi phí phát mãi tài sản (nếu có) chị Trần Thị H có trách nhiệm tiếp tục thanh toán số tiền còn thiếu.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh có ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ ngày thụ lý cho đến thời điểm xét xử và tại phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật.

Từ khi Tòa án thụ lý vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn chị Trần Thị H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, đã nhận được toàn bộ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ điều 91, 95 Luật tổ chức các tín dụng năm 2017, Điều 463, 466, 299, khoản 6 Điều 320, Điều 327 của Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận khởi kiện của Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh buộc: Chị Trần Thị H phải thanh toán nợ vay là 408.893.493 đồng, trong đó: Vốn gốc: 350.000.000 đồng, lãi trong hạn 49.465.068 đồng, lãi quá hạn 9.428.425 đồng, cho Ngân hàng A tính đến ngày xét xử.

Trường hợp chị Trần Thị H không thanh toán nợ thì chấp nhận xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 113 tờ bản đồ số 42, với diện tích 124,2m2 đất ở và 01 ngôi nhà 1 tầng, cấp 04 đổ bằng, tổng diện tích sử dụng khoảng 100m2, thuộc sở của chị Trần Thị H kèm Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY507086 do UBND thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh cấp ngày 01/9/2015, địa chỉ: TDP 7, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh và các mái che, bờ rào gắn liền với ngôi nhà.

Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điều 24, khoản 2 điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật số tiền là: 20.444.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn có hộ khẩu và hiện đang sinh sống trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về quan hệ pháp luật: Xét đơn khởi kiện của Ngân hàng A- Chi nhánh Hồng Lĩnh, mục đích vay là kinh doanh hàng tạp hóa nhỏ lẽ, không có giấy phép kinh doanh và đăng ký kinh doanh nên xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn là Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh có đơn khởi kiện yêu cầu chị Trần Thị H trả cho Ngân hàng A- Chi nhánh Hồng Lĩnh tổng số nợ còn thiếu tính đến ngày 09/10/2020 là 408.893.493 đồng, trong đó gồm vốn gốc 350.000.000 đồng, lãi trong hạn 49.465.068 đồng, lãi quá hạn 9.428.425 đồng.

Chị Trần Thị H tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quá hạn do các bên thỏa thuận tại. Hợp đồng tín dụng (dùng cho khách hàng là cá nhân) số 3702LAV201900549, ngày 15/3/2019 đến ngày trả dứt nợ. Xét hình thức, nội dung đơn khởi kiện là đúng theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 189 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn chị Trần Thị H đã được Tòa án tiến hành thủ tục triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, mặc dù chị Hồng đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng của Tòa án. Nên căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn là chị Trần Thị H phải có nghĩa vụ trả nợ theo: Hợp đồng tín dụng (dùng cho khách hàng là cá nhân) số 3702LAV201900549, ngày 15/3/2019. Xét hình thức và nội dung của Hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn mà các bên thỏa thuận là phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2017. nên có căn cứ xác định hợp đồng tín dụng này là có thật.

[3] Xét nội dung Hợp đồng cấp tín dụng (dùng cho khách hàng là cá nhân) số 3702LAV201900549, ngày 15/3/2019 có nội dung: Số tiền vay:

350.000.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm năm mươi triệu đồng chẵn). Thời hạn vay: 12 tháng. Lãi suất vay: Theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng. Đến ngày 15/3/2020 là khoản nợ đến hạn phải thanh toán nhưng chị Trần Thị H không thanh toán nợ vay cho Ngân hàng. Do đó, tính kể từ ngày 15/3/2020, Ngân hàng đã chuyển toàn bộ nợ vay và lãi suất còn lại chưa thanh toán trên sang nợ quá hạn là phù hợp. Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc ký kết hợp đồng cấp tín dụng ngày 15/3/2019 là tự nguyện, khách quan, những người tham gia ký kết hợp đồng cấp tín dụng đều đủ năng lực trách nhiệm dân sự, được quy định tại các Điều 385, 386, 389, 401 của Bộ luật dân sự. Vì vậy Hợp đồng tín dụng (dùng cho khách hàng là cá nhân) số 3702LAV201900549, ngày 15/3/2019 có hiệu lực pháp luật.

Cụ thể các khoản lãi như sau:

Tiền lãi trong hạn của nợ gốc 350.000.000 đồng là 49.465.068 đồng Tiền lãi quá hạn của nợ gốc 350.000.000 đồng là 9.428.425 đồng (Các khoản lãi trên được tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 09/10/2020).

Tổng toàn bộ cả số nợ gốc và hai khoản tiền lãi nêu trên là:

408.893.493 đồng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Việc tính lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 13 của Nghị quyết số: 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Cụ thể, vì các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nên, nếu chị Trần Thị H chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (09/10/2020) cho đến khi thi hành án xong chị Trần Thị H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất nợ quá hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.

[5] Xét yêu cầu xử lý tài sản đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp giữa Ngân hàng với chị Trần Thị H đã kí kết: Thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số tại thửa đất số 113, tờ bản đồ số 42, địa chỉ: Tổ dân phố 7, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh thuộc quyền sở hữu, sử dụng của chị Trần Thị H theo hợp đồng thế chấp sau: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số: 201900269/HĐTC, ngày 14/3/2019 được chứng thực tại UBND phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh ngày 14/3/2019, số chứng thực 68, quyển số 01/2019 SCT/HĐ - GD.

Tài sản thế chấp được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 507086, số vào sổ cấp GCN: 00089 do UBND thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh cấp ngày 01/9/2015 cho chị Trần Thị H có hiệu lực pháp luật vì những căn cứ sau:

Thứ nhất: Về hình thức và nội dung của hợp đồng đúng quy định của pháp luật, việc ký kết hợp đồng là khách quan, do hai bên tự nguyện, không bị ép buộc, chủ thể ký kết hợp đồng đều có năng lực hành vi dân sự.

Thứ hai: Căn cứ Điều 407 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về hợp đồng vô hiệu thì Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa Ngân hàng với chị Trần Thị H không vi phạm quy định từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Thứ ba: Bên thế chấp dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản nợ gốc, lãi và tất cả các nghĩa vụ liên quan khác đối với khoản vay của chị Trần Thị H. Theo quy định tại khoản 6 Điều 320 và khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên thế chấp phải giao tài sản thế chấp để xử lý. Qua sự phân tích các căn cứ nêu trên HĐXX khẳng định rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa Ngân hàng và chị Trần Thị H có hiệu lực pháp luật buộc các bên phải chấp hành các điều khoản đã nêu trong hợp đồng. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp bị đơn không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ là phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về việc giải quyết vụ án Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ điều 91, 95 Luật tổ chức các tín dụng năm 2017, Điều 463, 466, 299, khoản 6 Điều 320, Điều 327 của Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận khởi kiện của Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh buộc chị Trần Thị H phải thanh toán nợ vay là 408.893.493 đồng, trong đó vốn gốc:

350.000.000 đồng, lãi trong hạn 49.465.068 đồng, lãi quá hạn 9.428.425 đồng, cho Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh tính đến ngày xét xử.

Trường hợp chị Trần Thị H không thanh toán nợ thì chấp nhận xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số BY 507086, số vào sổ cấp GCN: 00089 do UBND thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh cấp ngày 01/9/2015 cho chị Trần Thị H. Địa chỉ: TDP7, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy quan điểm của Viện Kiểm sát là có căn cứ pháp luật nên chấp nhận.

[7] Về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn là người có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy an thường vụ Quốc hội. Cụ thể, bị đơn phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải trả cho Ngân hàng tính đến ngày 09/10/2020 là 408.893.493 đồng, tương đương với số tiền án phí là 20.444.000 đồng

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 39; Khoản 3 Điều 144, Khoản 1 Điều 147; Điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 235; Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điểm b khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy an thường vụ Quốc hội.

- Áp dụng khoản 3 Điều 40; khoản 1 Điều 299; khoản 6 Điều 320; Điều 465; Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2017; Điều 1 Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh.

1. Buộc chị Trần Thị H phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh tiền nợ gốc là 350.000.000 đồng.

Tiền lãi trong hạn là 49.465.068 đồng. Tiền lãi quá hạn là 9.428.425 đồng.

Tổng toàn bộ cả số nợ gốc và các khoản tiền lãi nêu trên là:

408.893.493 đồng (tính đến ngày 09/10/2020).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 10/10/2020) cho đến khi thi hành xong các khoản nợ trên, chị Trần Thị H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số: 3702LAV201900549, ngày 15/3/2019 2. Về xử lý tài sản thế chấp: Trong trường hợp chị Trần Thị H không trả được nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ nêu trên cho Ngân hàng A- Chi nhánh Hồng Lĩnh, thì Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo nội dung các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 201900269/HĐTC, ngày 14/3/2019 được chứng thực tại UBND phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh ngày 14/3/2019, số chứng thực 68, quyển số 01/2019 SCT/HĐ - GD.

Tài sản thế chấp được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số BY 507086, số vào sổ cấp GCN: 00089, thửa đất số 113, tờ bản đồ số 42 do UBND thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh cấp ngày 01/9/2015 cho chị Trần Thị H. Địa chỉ: TDP7, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

3. Về án phí: Buộc chị Trần Thị H phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là 20.444.000 đồng.

Trả lại cho Ngân hàng A - Chi nhánh Hồng Lĩnh số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 10.000.000 (mười triệu) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0001358 ngày 21 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

4. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 09/10/2020), các đương sự có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/DS-ST ngày 09/10/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:02/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về