Bản án 02/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA  

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 113/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với:

Bị cáo Hoàng Văn T; sinh năm 1985 tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: thôn 2, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Hoa T và bà Lê Thị N; Có vợ: Vương Thị H (đã ly hôn) và 01 con; Tiền sự: Ngày 31/5/2018 Công an huyện Hoằng Hóa xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 06/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thanh V, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 04h00’ ngày 31/8/2018 Hoàng Văn T đi từ nhà ra khu vực cầu

Lèn, huyện T mua 08 gói ma túy với số tiền 400.000 đồng của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ. Trên đường về T đã sử dụng 01 gói, còn lại 07 gói cất dấu trong người. Đến khoảng 11h30’cùng ngày T nghe tin nhà bị kẻ gian vào trộm cắp tài sản nên đã đi thẳng đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã T để trình báo sự việc mất trộm tại nhà mình. Trong quá trình làm việc T đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và tự nguyện giao nộp 07 gói ma túy đang cất dấu trong người. Cơ quan công an đã lập biên bản niêm phong 07 gói ma túy do T giao nộp để trưng cầu giám định. Tại kết luận giám định số 1819/MT-PC-09 ngày 05/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,245g loại heroin.

Bản cáo trạng số 03/CTr-KSHH ngày 20 tháng 12 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo thừa nhận do nghiện chất ma túy nên ngày 31/8/2018 đã ra cầu Lèn mua 08 gói ma túy về để sử dụng, bị cáo đã sử dụng 01 gói, còn lại 07 gói cất dấu trong người và khi về làm việc với Công an về việc gia đình bị cáo mất trộm tài sản, bị cáo đã tự nguyện giao nộp 07 gói ma túy đang cất dấu trong người. Số ma túy thu giữ do bị cáo giao nộp giám định có tổng khối lượng 0,245g loại heroin. Do đó giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh nêu trên và sau khi đánh giá tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm r, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn T từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã truy tố, đồng ý với luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để được sớm trở về gia đình vì hiện nay vợ chồng bị cáo đã ly hôn, bị cáo đang phải nuôi con nhỏ.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo T theo Cáo trạng truy tố là đúng quy định pháp luật nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về điều kiện hoàn cảnh của bị cáo, đó là xuất phát từ việc bị cáo nghiện ma túy, hiện mắc HIV đã chuyển AIDS nên bị cáo đã mua ma túy để sử dụng, sau khi mua về bị cáo thấy được việc tàng trữ là vi phạm pháp luật nên đã tự thú và giao nộp cho cơ quan Công an, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo cũng đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm, bị cáo hiện đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng, thuộc hộ nghèo. Đề nghị áp dụng Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt cho bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 04h00’ ngày 31/8/2018 Hoàng Văn T đi ra khu vực cầu Lèn, huyện T mua 08 gói ma túy với số tiền 400.000 đồng về để sử dụng, T đã sử dụng một gói, còn lại 07 gói cất dấu trong người. Sau khi nghe tin nhà bị kẻ gian vào trộm cắp tài sản nên đã đi đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã T để trình báo sự việc mất trộm tại nhà mình. Trong quá trình làm việc T đã nhận thức hành vi đang cất dấu ma túy trong người là vi phạm pháp luật nên đã tự nguyện giao nộp 07 gói ma túy đang cất dấu trong người. Cơ quan công an đã lập biên bản niêm phong 07 gói ma túy do T giao nộp để trưng cầu giám định. Tại kết luận giám định số 1819/MT-PC-09 ngày 05/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,245g loại heroin.

Hành vi cất dấu trái phép chất ma túy của bị cáo Hoàng Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

 [3] Xét tính chất của vụ án thì thấy: Hành vi của bị cáo Hoàng Văn T đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục bị cáo, giáo dục chung cho xã hội và cần thiết cách ly khỏi xã hội mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo.

 [4] Xét về tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và đã tích cực hợp tác với cơ quan Công an trong việc phát hiện tội phạm, sau khi phạm tội đã tự thú, tự nguyện giao số ma túy đang cất dấu trong người. Do đó áp dụng các quy định của khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để lượng giảm cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hiện đang mắc bệnh HIV/AIDS, hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng, thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền.

 [6] Về vật chứng: Số ma túy thu được của bị cáo còn lại sau giám định là 0,228g là vật Nhà nước cấm lưu hành hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa cần tịch thu tiêu hủy.

 [7] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm r, s, t khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. 

Điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự

Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn Thành 01 (Một) năm tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 06/9/2018. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày đi thi hành án hình sự.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,228g ma túy còn lại sau giám định (Theo phong bì niêm phong số 1819/MT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa tại biên bản giao nhận vật chứng số 24/BBGN ngày 27/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa).

Về án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hoàng Văn T.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thi người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về