Bản án 02/2019/HS-ST ngày 09/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 09/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 97/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Minh Đ, sinh ngày 28 tháng 7 năm 1982 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường L, phường G, quận N, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trung K và bà Phạm Thị T; có vợ Lưu Thị Thanh P và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 17/9/2018, tạm giam ngày 18/9/2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 16/9/2018, tại khu vực đầu ngõ 279 đường Đà Nẵng, phường Cầu Tre, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Công an phường Cầu Tre kiểm tra bắt quả tang Phạm Minh Đ và Trần Anh D, sinh năm 1980, trú tại đường Q, phường N, quận B có dấu hiệu tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Đ 01 gói nilon kích thước 1,5x1,5 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng ; 01 xe mô tô biển kiểm soát 15B2-234.74. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng gửi giám định.

Kết luận giám định số 511/KLGĐ(Đ6) ngày 18/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Minh Đ là ma túy, có khối lượng 0,2585 gam, là loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Phạm Minh Đ, khai nhận: Khoảng hơn 11 giờ ngày 16/9/2018, Đ gặp bạn là Trần Anh D tại đường Hàng Kênh, Lê Chân. Đ nhờ D chở đến ngõ 279 đường Đà Nẵng, D đồng ý điều khiển xe mô tô 15B2-234.74 chở Đ đi, khi đi ngang qua ngõ 267 đường Hàng Kênh thì Đ nhìn thấy C (là bạn nhưng không biết địa chỉ), Đ bảo D dừng xe đứng đợi còn Đ quay lại gặp và mua của C 01 gói ma túy đá hết 300.000 đồng mục đích để một mình sử dụng, mua xong Đcất gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái đi ra chỗ D rồi cả hai đi  đến đầu ngõ 279 Đà Nẵng, khi dừng xe để vào quán nước thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ vật chứng. Từ khi Đ gặp C mua ma túy cất giấu trong người, đến khi bị bắt quả tang Đ không nói cho D biết đã mua ma túy của C.

Về vật chứng: 01 xe mô tô biển kiểm soát 15B2-234.74 là của anh Dương Ngọc A (bạn D), trú tại 33/51/229 đường Hàng Kênh, quận Lê Chân, ngày 16/9/2018 anh A cho D mượn xe. Nhận thấy anh A không liên quan đến hành vi phạm tội của Đ nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho chủ sở hữu hợp pháp, 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 511/2018/PC09.

Tại bản Cáo trạng số 02/CT-VKSNQ ngày 18/12/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Minh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Minh Đ khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Minh Đ với mức án từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 511/2018/PC09. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Minh Đ đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,2585 gam Methamphetamine. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về việc xử lý vật chứng:

[7] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 511/2018/PC09.

[8] 01 xe mô tô biển kiểm soát 15B2-234.74 là của anh Dương Ngọc A không liên quan đến hành vi phạm tội của Đ, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đ có tên là C, chưa xác minh được căn cước lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau. Đối với Trần Anh D chở Phạm Minh Đ nhưng không biết Đ xuống xe để mua ma túy và cất giấu trong người. Không có căn cứ chứng minh D đồng phạm tội với Đ nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Minh Đ 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 17/9/2018.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 511/2018/PC09 theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy  ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Phạm Minh Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phạm Minh Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 09/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về