TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 02/2019/HSST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08/01/2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 174/2018/HSST ngày 12/12/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 168/2018/QĐXXST-HS ngày 24/12/2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Văn P, sinh ngày 20/10/1991; thường trú và chỗ ở tại thôn 1, xã Điền Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; học vấn: 12/12; nghề nghiệp: tự do; bố là ông Vũ Văn G, sinh năm 1960 và mẹ là bà Bùi Thị T, sinh năm 1961, cùng trú tại xã Điền Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; gia đình có 04 chị em, bị cáo là thứ tư; Vợ con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 23/10/2018 bị công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt vi phạm hành chính do có hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 20/9/2018; nhân thân: năm 2009 bị Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội “Cướp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và án phí, đến năm 2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tháng 01/2015 đã chấp hành xong hình phạt chính, bồi thường thiệt hại và án phí. Bị cáo bị giữ khẩn cấp ngày 25/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa;
- Bị hại: Công ty K, địa chỉ tại phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Đại diện là ông Võ N – Chức vụ: Phó Giám đốc, có đơn xin xử án vắng mặt;
- Những người làm chứng:
+ Ông Hà Ngọc T, sinh năm 1964, trú tại tổ 1, khu Nam Tân, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt;
+ Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1969, trú tại tổ 8, khu 6, phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt;
+ Anh Đỗ Văn V, sinh năm 1990, trú tại khu Hồng Hà, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt;
+ Anh Phùng Văn V, sinh năm 1985, trú tại xã Điền Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 25/10/2018, Vũ Văn P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15-976L1, từ nhà đem theo 02 bao tải và một đôi găng tay đến khu vực cầu vượt thuộc khu 9, phường Quang Trung, thành phố Uông Bí để đợi tàu hỏa của Công ty K vận chuyển than qua, sẽ trèo lên toa tầu chở than để trộm cắp than. Khoảng 2 giờ 15 phút cùng ngày đầu máy CK08 do anh Trương Bá Dũng vận hành, kéo 16 toa đi đến nơi, tàu giảm tốc độ, P liền trèo lên toa tàu số 330 (phía sau đầu máy) nhặt than cục cho vào 02 bao và đẩy than vứt xuống đường tàu. Khi bị bảo vệ phát hiện, P nhảy xuống tàu rồi đi vào nhà anh Phùng Văn V để rửa chân tay và mượn quần để thay. Sau đó khi bị cáo quay lại tìm xe mô tô thì bị cơ quan điều tra lập biên bản và mời về trụ sở làm việc.
Tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn P khai: Tối ngày 24/10/2018 bị cáo chuẩn bị găng tay, ủng và hai vỏ bao dứa, đến khoảng 01 giờ sáng ngày 25/10/2018, bị cáo tự ý lấy xe mô tô của bố và mang theo những dụng cụ đã chuẩn bị đi ra khỏi nhà, đến khu ngõ nhà ông Cửu bị cáo đỗ xe lại và đi bộ lên khu chân cầu vượt quốc lộ 18A để chờ tàu than đi qua. Đến khoảng 01 giờ 30 phút có tàu than đi qua, bị cáo nhảy lên toa chở than sát đầu kéo, bị cáo dùng tay bốc than cục cho vào hai bao dứa, khi đóng đầy hai bao thì bị cáo thấy có ai đó soi đèn pin vào người, bị cáo liền đẩy hai bao than xuống phía trái đường tàu, sau khi đẩy hai bao than xuống, bị cáo tiếp tục dùng tay đẩy những cục than trên tàu xuống, sau đó bị cáo nhảy xuống đất. Bị cáo đi bộ vào nhà anh họ là Phùng Văn V ở gần đó xin nhờ nước rửa tay chân và mượn quần mặc, bị cáo thay quần của mình ra và để ở nhà anh V. Sau đó bị cáo quay trở lại tìm xe mô tô thì bị cơ quan điều tra lập biên bản và đưa bị cáo về trụ sở làm việc.
Bị cáo khai việc phạm tội là bị cáo thực hiện một mình, không có đồng phạm, không ai hứa tiêu thụ than trộm cắp được, khi đến nhà anh Phùng Văn V bị cáo không nói gì về việc trộm cắp than của mình, chiếc xe mô tô bị cáo đi là của bố bị cáo, bị cáo tự ý lấy xe đi và không nói gì về việc trộm cắp với bố, đối với điện thoại di động bị cơ quan điều tra thu giữ, bị cáo không sử dụng để liên lạc phạm tội.
Ngoài ra, bị cáo khai: Lúc đầu tại cơ quan điều tra bị cáo chỉ nhận là trộm cắp hai bao tải than vì sợ nếu nhận mình có đẩy thêm số than mà bảo vệ thu giữ được xuống đường thì sẽ bị tội nặng hơn. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận ngoài hai bảo tải than vứt xuống đường thì bị cáo còn dùng tay đẩy than cục rơi xuống ven đường, mục đích là sẽ quay lại thu gom than sau nếu bảo vệ không truy đuổi nữa. Bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Bị hại trong vụ án là Công ty K đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xử vắng mặt, trong quá trình điều tra bị hại đã có công văn số 1379 ngày 25/10/2018 và 1519 ngày 30/11/2018 để trình bày sự việc: Rạng sáng ngày 25/10/2018 bảo vệ công ty phát hiện bị cáo nhảy tàu trên toa xe số 330 sát đầu máy, đoàn toàn số hiệu CK 08 do anh Trương Bá D lái tàu, bị cáo đã đóng bao vứt than xuống hai bên đường sắt, sau đó bảo vệ thu giữ tại hiện trường 02 bao tải than và than thu hồi dọc đường, cùng 01 xe máy tại hiện trường. Trong đơn xin xử án vắng mặt, về phần hình phạt bị hại đề nghị Tòa án xét xử bị cáo theo pháp luật, về phần dân sự bị hại không yêu cầu bồi thường.
Người làm chứng là ông Hà Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra có lời khai thể hiện: Ông hiện là bảo vệ của Công ty K, khoảng hơn 01 giờ sáng ngày 25/10/2018, ông nhận được thông tin có tàu chở than của công ty từ ga A ra cảng
Điền Công, sau đó có anh Trần Bình cũng là bảo vệ gọi báo là phát hiện thấy bị cáo đang nhảy tàu trộm cắp than, ông huy động thêm bảo vệ đến thì thấy các anh Ẩm, Trần Bình, anh Tú, anh Hải, anh V đang thu gom than cục rơi rìa đường và đóng được 05 bao tải vơi. Một lúc sau ông thấy bị cáo đến gặp đòi xe mô tô, ông biết là ở cách vị trí đang thu gom than có anh Hùng đang quản lý một chiếc xe mô tô Dream cùng 02 bao tải than lúc trước bị cáo vứt xuống. Vì vậy ông chở bị cáo đến vị trí chỗ anh Hùng đang giữ tài sản, sau đó anh em bảo vệ mang 05 bao tải than vơi vừa thu gom được về và cơ quan điều tra đến lập biên bản với bị cáo P.
Người làm chứng là ông Nguyễn Thanh H vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra có lời khai thể hiện: Hiện ông đang làm bảo vệ công ty, khoảng 02 giờ sáng ngày 25/10/2018, khi ông và anh Đỗ Văn V nhận nhiệm vụ áp tải tàu thì phát hiện có người đang nhảy tàu trộm cắp than, ông soi đèn pin vào và nhận ra đó là Vũ Văn P.
Sau đó ông thấy bị cáo vứt hai bao tải than xuống dọc đường rồi nhảy xuống đất, ông tạm giữ hai bao tải than và gọi điện thoại cho ông Tr đến làm việc.
Người làm chứng là anh Đỗ Văn V và anh Phùng Văn V vắng mặt nhưng có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo và tài liệu hồ sơ khác trong vụ án.
Tại chứng thư giám định về chất lượng số 18D07CV5996-02 ngày 26/10/2018 của Vinacontrol Quảng Ninh xác định mẫu than có các chỉ tiêu phù hợp với than cục 2a.3 (01-C2A.3) theo TCVN 8910:2015 than thương phẩm – yêu cầu kỹ thuật.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 91 ngày 29/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Uông Bí, kết luận: 269,7kg than cục 2a.3 của Công ty K trị giá 805.000 đồng.
Tại cáo trạng số 05 ngày 10/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Vũ Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Vũ Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo P từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn từ ngày bị tạm giữ 25/10/2018.
Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.
Về vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại bị cáo chiếc quần bò cũ mà cơ quan điều tra thu giữ được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Cơ quan điều tra thành phố Uông Bí, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[1.2] Bị hại đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin xử án vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt bị hại.
[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay về cơ bản giống với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố đối với bị cáo, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập được, vì vậy đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 2 giờ 15 phút ngày 25/10/2018, tại khu vực Km4+400 thuộc phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, bị cáo Vũ Văn P đã có hành vi trèo lên tàu hỏa CK08, toa tàu kéo 330 của Công ty K, lấy trộm 269,7kg than cục loại 2a.3, trị giá 805.000 đồng.
Tuy tài sản bị cáo trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng trước đó vào ngày 23/10/2018 bị cáo đã bị Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt hành chính do có hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 20/9/2018, vì vậy hành vi lần này của bị cáo Vũ Văn P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Điểm a, khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.”
Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Vũ Văn P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Trong vụ án này, bị cáo Vũ Văn P là người đã thành niên, có đầy đủ khả năng nhận thức, bị cáo đã từng hai lần bị phạt tù vì vi phạm pháp luật, gần đây cũng bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp than, như vậy bị cáo hoàn toàn ý thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bởi vì lòng tham, muốn kiếm tiền không phải bằng con đường lao động chân chính nên bị cáo đã cố ý lợi dụng lúc đêm tối để trèo lên tàu than của bị hại để lén lút lấy trộm than, vì vậy Hội đồng xét xử thấy cần phải lên một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung. Trong quá trình nghị án, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ để giảm một phần hình phạt cho bị cáo, qua đó để bị cáo thấy được sự khoan hồng của nhà nước ta.
[3] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo không có tiền án nhưng có nhân thân xấu, năm 2009 bị Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội “Cướp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và án phí, đến năm 2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tháng 01/2015 đã chấp hành xong hình phạt chính, bồi thường thiệt hại và án phí. Về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ngoài ra, hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.
[5] Sau khi xem xét, đánh giá nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng tuy tài sản trộm cắp có giá trị không lớn, nhưng bị cáo có nhân thân xấu, đã hai lần bị phạt tù nhưng không biết lấy đấy làm bài học sửa đổi mà lại tiếp tục đi vào con đường phạm tội, vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thể tập trung tu dưỡng cải tạo, trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[6] Về phần dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.
[7] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra thu giữ 269,7 kg than cục; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II biển kiểm soát 15-976L1; 01 điện thoại di động và 01 chiếc quần bò của bị cáo P.
Xét thấy: 269,7kg than đã gửi đi giám định hết; 01 xe mô tô Honda Dream II biển kiểm soát 15-976L1 chưa xác định được chủ sở hữu, cơ quan điều tra đã tách ra để làm rõ xử lý sau, vì vậy không đề cập giải quyết; 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo P không liên quan đến việc phạm tội, đã trả lại cho bị cáo P nên không đề cập giải quyết; 01 chiếc quần bò là tài sản riêng của bị cáo nên phải trả lại cho bị cáo.
[8] Về hình phạt bổ sung: khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[9] Bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
[10] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 và Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên bố: Vũ Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Vũ Văn P 09 (chín) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bị tạm giữ 25/10/2018.
Về vật chứng: Trả lại bị cáo P 01 chiếc quần bò nam, màu đen, đã qua sử dụng (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí ngày 12/12/2018).
Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Văn P phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 02/2019/HSST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 02/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về