Bản án 02/2019/HNGĐ-STngày 25/03/2019 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST. NGÀY 25/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Các ngày 22 và 25 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:290/2018/TLST–HNGĐ, ngày  07/12/2018, về “Tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12/03/2019, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hằng Ng.

Địa chỉ: Ấp 8, xã TH, huyện HQ, tỉnh Bình Phước.

- Bị đơn: Anh Trần Tuấn V.

Địa chỉ: Ấp TĐ, xã LĐ, huyện LP, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 11 năm 2018 và các tài liệu khác có trong hồ sơ, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, nguyên đơn chị NguyễnThị Hằng Ng (Chị Ng) trình bày: Vào năm 2012 chị Nguyễn Thị Hằng Ng với anh Trần Tuấn V (Anh V) kết hôn với nhau không có đăng ký kết  hôn. Đến ngày 16/12/2014 chị Nguyễn Thị Hằng Ng với anh Trần Tuấn V mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LĐ, huyện LP, tỉnh Sóc Trăng, sau kết hôn chị Nguyễn Thị Hằng Ng với anh Trần Tuấn V sống hạnh phúc, đến tháng 3 năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn với nhau do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị Nguyễn Thị Hằng Ng với anh Trần Tuấn V sống ly thân với nhau từ đó đến nay.

Trong quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Hằng Ng với anh Trần Tuấn V có hai con chung tên Trần Nguyễn Bảo Trân, sinh ngày 24/6/2013 và Trần Nguyễn Bảo Thy, sinh ngày 06/11/2014. Trần Nguyễn Bảo Trân hiện đang sống với anh Trần Tuấn V, Trần Nguyễn Bảo Thy hiện đang sống với chị Nguyễn Thị Hằng Ng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Nay chị Nguyễn Thị Hằng Ng yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long Phú giải quyết. 

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hằng Ng xin được ly hôn với anh Trần Tuấn V.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hằng Ng xin được nuôi con tên Trần Nguyễn Bảo Thy, sinh ngày 06/11/2014 không yêu cầu anh Trần Tuấn V cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/01/2019, các tài liệu khác có trong hồ sơ, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn, anh Trần Tuấn V trình bày: Anh hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của chị Ng về việc kết hôn, tình trạng hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Nay chị Ng yêu cầu ly hôn anh không đồng ý vì anh còn thương vợ, thương con hơn nữa các con của anh chị còn quá nhỏ. Nếu Tòa án giải quyết cho chị Ng và anh Ly hôn anh đồng ý với yêu cầu nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con của chị Ng.

Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diên Viện Kiểm Sát phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử tiến hành nghị án, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục tố tụng. Đối với những người tham gia tố tụng thì trước và tại phiên tòa hôm nay chấp hành đúng quy định của Bộ luât tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm Hội đồng xét xử, thư ký thực hiện đúng trình tự thủ tục tại phiên tòa. Về nội dung, Vị đại diện Viện kiểm sát nêu quan điểm chấp nhận yêu cầu theo đơn khởi kiện của nguyên đơn;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện ngày 27/11/2018 của chị Nguyễn Thị Hằng Ng yêu cầu Tòa án giải quyết về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn với anh Trần Tuấn V địa chỉ: Số 375 ấp TĐ, xã LĐ, huyện LP, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Long Phú thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định pháp luật về thẩm quyền lãnh thổ và cấp xét xử.

 [2] Về yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Nguyễn Thị Hằng Ng đối với anh Trần Tuấn V: Về quan hệ hôn nhân chị Ng và anh V đều thống nhất thừa nhận anh chị chung sống với nhau và đăng ký kết hôn vào tháng 12 năm 2014. Theo chị Ng thì trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẩn do bất đồng quan điểm sống, anh V thường hay chơi cờ bạc, không lo làm ăn, không chăm lo cho gia đình, phá tán gia sản, có nhiều hành vi lời lẽ không hay xúc phạm cha mẹ vợ. Còn theo anh V thì cuộc sống vợ chồng không phát sinh mâu thuẩn gì nghiêm trọng, trước đây anh có chơi cờ bạc, nhưng hiện nay anh đã lo làm ăn để chăm lo cho gia đình, còn việc chi Ng cho rằng anh có những hành vi, lời lẽ xúc phạm gia đình bên vợ là không có. Từ nội dung trình bày như trên cho thấy trong cuộc sống anh V và chị Ng đã phát sinh nhiều mâu thuẩn kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, khó có thể hàn gắn được, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trên thực tế anh chị đã sống ly thân gần 01 năm nay. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 85, khoản 1 Điều 89, Điều 91 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Hằng Ng. [3] Về quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Ng yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung là cháu Trần Nguyễn Bảo Thy, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế chị Ng đã không còn chung sống với anh V gần 01 năm nay, trong khoảng thời gian này con chung là cháu Trần Nguyễn Bảo Thy sống với chị Ng, còn cháu Trần Nguyễn Bảo Trân đang sống bên anh V cuộc sống của các cháu đã ổn định về mọi mặt, việc thay đổi điều kiện, hoàn cảnh sống sẽ làm ảnh hưỡng đến tâm lý, tình cảm, sự phát triển bình thường về mọi mặt của các cháu. Do đó, Yêu cầu được nuôi con chung là cháu Trần Nguyễn Bảo Thy, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị Ng là hợp lý có cơ sở để Hội Đồng xét xử chấp nhận, hơn nữa tại phiên tòa sơ thẩm anh V cũng đồng ý với yêu cầu nuôi con chung và không cấp dưỡng nuôi con chung của chị Ng.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Ng và anh V xác định anh chị không có thiếu nợ ai, tài sản chung không có, không yêu cầu tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Chị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng

[6] Đề nghị của Kiểm sát viên về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào các Điều 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Áp dụng: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1Điều 39, khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 85, khoản 1 Điều 89, Điều 91, 92, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

* Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hằng Ng được ly hôn với anh Trần Tuấn V.

2. Về quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Hằng Ng được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Nguyễn Bảo Thi, sinh ngày 06/11/2014. Anh Trần Tuấn V được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Nguyễn Bảo Trân, sinh ngày 24/6/2013. Anh Trần Tuấn V và chị Nguyễn Thị Hằng Ng không phải cấp dưỡng cho các con chung. Anh Trần Tuấn V và chị Nguyễn Thị Hằng Ng có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Anh Trần Tuấn V và chị Nguyễn Thị Hằng Ng xác định anh chị không có thiếu nợ ai, tài sản chung không có, không yêu cầu tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hằng Ng phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005566 ngày 29 tháng 11 năm 2018 của

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Anh Trần Tuấn V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-STngày 25/03/2019 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về