Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 21/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 700/2018/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1988; địa chỉ cư trú: Số 17, ấp T, xã TĐ, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: Số 17, ấp T, xã TĐ, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 27 tháng 11 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị N trình bày:

Chị và anh Nguyễn Xuân T sống chung với nhau năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TĐ, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh ngày 02-4-2010, hôn nhân tự nguyện; trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên gây gổ, cải vã với nhau, anh T thường xuyên có lời lẽ xúc phạm chị. Sau đó, anh T đã bỏ nhà đi biệt tích từ tháng 5-2014 cho đến nay, do chị không rõ tin tức cụ thể anh T đang sinh sống tại địa chỉ cụ thể nào nên năm 2017 chị yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tân Châu tuyên bố anh T mất tích.

Ngày 13-9-2018 Tòa án nhân dân huyện Tân Châu ban hành Quyết định số 05/2018/QĐDS-ST về việc tuyên bố anh Nguyễn Xuân T mất tích. Do đó, nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Nguyễn Xuân T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 người con tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 23-4-2011, hiện cháu H đang sống chung với chị. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu H, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Anh Nguyễn Xuân T đã bị Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh tuyên bố mất tích tại Quyết định tuyên bố mất tích số 05/2018/QĐDS-ST, ngày 13- 9-2018.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ theo trình tự thủ tục, thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện các thủ tục đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không xảy ra vi phạm về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

- Việc tuân thủ pháp luật của những người tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Phạm Thị N đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn anh Nguyễn Xuân T đã bị Tòa án tuyên bố mất tích nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N, anh T là đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 68 của Bộ luật Dân sự; các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 146 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

- Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị N đối với anh Nguyễn Xuân T;

- Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 23-4-2011 cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng; ghi nhận chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận chị N không yêu cầu giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Thị N vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Xuân T đã được Tòa án tuyên bố mất tích nên Hội đồng xét xử căn cứ các khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị N, anh T.

[2] Về hôn nhân: Chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Xuân T chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 2010, hôn nhân giữa anh, chị là tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử nhận định đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N thấy rằng, trong quá trình sống chung giữa chị N và anh T có xảy ra mâu thuẫn và anh T bỏ nhà đi biệt tích từ tháng 5-2014 nên chị N yêu cầu Tòa án tuyên bố anh T mất tích. Ngày 13-9-2018 Tòa án nhân dân huyện Tân Châu tuyên bố anh Nguyễn Xuân T mất tích theo Quyết định số 05/2018/QĐDS-ST. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T đã vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân giữa anh, chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được nên việc chị N yêu cầu ly hôn với anh T là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 68 của Bộ luật Dân sự và Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Chị N và anh T có 01 người con tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 23-4-2011. Xét thấy, từ khi anh T bỏ đi biệt tích, cháu H sống chung với chị N vẫn đảm bảo phát triễn và ổn định; mặt khác anh T hiện nay không rõ tin tức cụ thể nên căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu H cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh T có nghĩa vụ đóng góp (cấp dưỡng) cháu H cùng với chị.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận chị N không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 68 của Bộ luật Dân sự; các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Xuân T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 23-4- 2011 cho chị Phạm Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh T có nghĩa vụ đóng góp (cấp dưỡng) cháu H cùng với chị.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận chị N không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu số 0026165 ngày 03 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; chị N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Xuân T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 21/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về