Bản án 02/2019/DS-ST ngày 10/12/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 02/2019/DS-ST NGÀY 10/12/2019 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN

Ngày 10/12/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 103/2019/TLST-DS ngày 16 tháng 4 năm 2019 về “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại về tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2019/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 11 năm 2019. Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2019/QĐ-ST ngày 28 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Hoàng P, sinh năm 1981 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp Ô, xã L, huyện C, tỉnh T.

- Bị đơn: Ông Lê Văn P1, sinh năm 1983 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp Ô, xã L, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn đơn khởi kiện ngày 11/4/2019 và khởi kiện bổ sung ngày 19/7/2019 các lời khai trong quá trình tố tụng (nguyên đơn) ông Lê Hoàng P trình bày:

Vào ngày 25/02/2019 tại phần đất trống của ông Lê Thành G, ông có đến cắt cỏ cho bò ăn các lần như sau: - Vào lúc 08 giờ sáng cắt một xe về cho bò ăn.

- Từ 10- 11 giờ cắt thêm 01 xe về cho bò ăn.

- Từ 13- 14 giờ ông qua cắt thêm cỏ để dự trữ, khi đến nơi ông thấy cỏ bị héo, cháy vàng lá. Ông có hỏi ông G có xịt thuốc trên cỏ không? ông G trả lời là “không” nên ông qua nhà hỏi ông Lê Văn P1 hỏi thì ông P1 thừa nhận có xịt thuốc. Sau đó ông chạy về nhà kiểm tra lại tình trạng sức khỏe của bò thì thấy bò mẹ đang mang thai 06- 07 tháng bị ra huyết bất thường và tất cả những con bò của ông được ăn cỏ bị vật vã nên ông trình báo chính quyền địa phương đến làm việc. Ông mua thuốc vitamin về cho bò uống nhưng sau 03- 04 ngày sức khỏe bò không hồi phục nên ông bán 02 con bò (01 con đang mang thai 06-07 tháng giá 19.000.000 đồng; 01 con bò tơ giá 5.000.000 đồng), tổng cộng là 24.000.000 đồng. Nay ông yêu cầu ông P1 bồi thường thiệt hại cho ông số tiền bán bò là 16.000.000 đồng.

- Theo bị đơn ông Lê Văn P1 trình bày: Ông với ông P là bà con chú bác. Trước kia ông được ông H cho đất để trồng cỏ nuôi bò, hàng ngày ông cắt cỏ trên đường con lươn đất của ông H, ông P thì cắt cỏ dưới líp trên đất ông G (loại cỏ tự mọc). Ông thừa nhận lúc 11 giờ trưa ngày 25/02/2019 có xịt thuốc, loại thuốc cỏ năng ở đường con lươn (bờ ranh) đất trồng cỏ của ông H. Khoàng 14 giờ chiều ngày 25/02/2019 ông P đến cắt cỏ thì phát hiện cỏ vàng héo lá nên đến nhà chữi bới ông cho rằng ông xịt thuốc lên cỏ, bò ông P ăn trúng độc và yêu cầu ông bồi thường thiệt hại 16.000.000 đồng, ông không đồng ý bồi thường cho ông P vì phần cỏ này ông P không có cắt.

Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại phiên tòa cho rằng việc thụ lý vụ án đúng quan hệ tranh chấp.Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký, của Hội đồng xét xử và các đương sự đảm bảo đúng quy định. Về người tham gia tố tụng Tòa án đã đưa đầy đủ trong hòa giải cũng như tại phiên tòa. Tuy nhiên có vi phạm thời hạn xét xử nhưng không ảnh hưởng nội dung vụ án.

- Về việc giải quyết vụ án: Qua phân tích, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ do nguyên đơn, bị đơn cung cấp, vị đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hoàng P về việc yêu cầu ông Lê Văn P1 bồi thường thiệt hại tiền bán bò 16.000.000 đồng.

Buộc ông Lê Hoàng P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. (Có bài phát biểu kèm theo).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Đây là vụ án “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại về tài sản” theo quy định tại khoản 6 Điều 26, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Qua xem xét yêu cầu của nguyên đơn ông Lê Hoàng P và quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Lê Hoàng P cho rằng vào sáng khoảng 08 giờ ngày 25/02/2019 ông đi cắt cỏ trên phần đất của ông G thì thấy cỏ bình thường đem về cho bò ăn, đến khoảng 10 đến 11 giờ ông cắt cỏ cũng thấy cỏ xanh tươi bình thường và đem về cho bò ăn, đến khoảng từ 13 đến 14 giờ cùng ngày tiếp tục đến phần đất ông G cắt cỏ thì phát hiện cỏ úa vàng nên ông có hỏi ông P1 có xịt thuốc cỏ hay không thì ông P1 thừa nhận có xịt nên từ đó phát sinh tranh chấp, ông cho rằng bò của ông ăn cỏ trúng độc thuốc khoảng 10 ngày, ông đem bán 02 con bò (01 con bò đang có thai và 01 con bò tơ với giá 24.000.000 đồng nhưng ông yêu cầu ông P1 bồi thường thiệt hại sau khi bù trừ còn 16.000.000 đồng.

[3] Đối với ông P1 thừa nhận có xịt thuốc cỏ cháy nhưng xịt bên phần con lươn (bờ ranh) đất của ông H giáp với đất của ông G, vì ông H cho ông trồng cỏ cho bò ăn. Hơn nữa thời gian từ 08giờ sáng đến 10 giờ trưa ông P1 chưa xịt thuốc, đến 11 giờ ông P1 mới xịt thuốc, từ 14 giờ đến 15 giờ ông P ra cắt cỏ thì phát hiện cỏ héo vàng nên ông P không cắt và hai bên cự cải với nhau.

[4] Xét thấy; ông Lê Hoàng P khởi kiện yêu cầu ông Lê Văn P1 bồi thường thiệt hại tiền bán bò 16.000.000 đồng, ông P1 không đồng ý bồi thường. Hội đồng xét xử xét thấy tại biên bản xác minh ông Nguyễn Văn K (ngày 06/11/2019) ông K cho rằng khoảng tháng 02 năm 2019 ông Lê Hoàng P có bán 01 con bò tơ cho ông với giá 5.000.000 đồng để ông tổ chức làm đám cưới cho con của ông, thời điểm ông mua bò thấy bò khỏe mạnh bình thường, không có biểu hiện gì bị bệnh. Tại biên bản xác minh ông Ngô Văn H1 là công viên ấp Ô cho rằng ngày 25/02/2019 xảy ra sự việc ông P báo lại là ông P1 xịt thuốc cỏ qua phần đất của ông G, ông P cắt cỏ về cho bò ăn, bò bị ngộ độc thuốc, qua xác minh thì có sự việc cỏ bị cháy héo do nhiễm thuốc, ông P1 khai xịt thuốc là 11 giờ trưa, ông P cắt cỏ khoảng 14 giờ chiều và thấy cỏ héo vàng nên ông P không cắt, ngày 26/02/2019, địa phương có xác minh bò của ông P thì thấy con bò đang mang thai bị ra máu nguồn nhưng không khẳng định bò có ăn cỏ nhiễm thuốc hay không, theo ông H1 thì nếu như bò ăn nhằm cỏ nhiễm thuốc thì chỉ bị tiêu chảy và cho uống vitamin, chứ bò không chết. Sau khi sự việc xảy ra, ông P cũng không báo với cơ quan Chi cục thú y, cơ quan kiểm định… các cơ quan tổ chức khác có đủ tiêu chuẩn để xác định tình trạng bò. Đến chín mười ngày sau ông P tự ý bán bò mà không báo cho ông P1 biết để hai bên thỏa thuận với nhau, như vậy ông không có chứng cứ chứng minh việc bò của ông bị ngộ độc thuốc, ông yêu cầu ông P1 bồi thường 16.000.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận, nghĩ nên bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hoàng P. [5] Về án phí: Cần áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc ông Lê Hoàng P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 800.000 đồng.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm và lời đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và cũng phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 6 Điều 26, Điều 35, khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 584, 588, 589 Bộ luật dân sự 2015.

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hoàng P về việc yêu cầu ông Lê Văn P1 bồi thường tiền bán bò 16.000.000 đồng.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Lê Hoàng P phải chịu 800.000 đồng (Tám trăm ngàn đồng), số tiền này ông P nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

Trường hợp bản án, quyết định thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt nguyên đơn, bị đơn, báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

391
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/DS-ST ngày 10/12/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại tài sản

Số hiệu:02/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về