Bản án 01/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Vào ngày 19 tháng 01 năm 2021tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn Ch - Sinh năm 1996, tại xã X, huyện M, tỉnh N; Nơi cư trú: bản Đ, xã Ph, huyện Q, tỉnh Th.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Th và bà Bùi Thị M. Bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự (ngày 03/09/2020, bị Công an huyện Quan Hóa xử phạt hành chính 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác” Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/09/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Quan Hóa (Có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ 00 phút ngày 21 tháng 09 năm 2020, Công an xã Tr, huyện Q phối hợp với Công an huyện Q làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực khu vực tổ X, bản C, xã Tr, huyện Q thì phát hiện 01 nam thanh niên đang điều khiển xe máy theo hướng từ huyện M, tỉnh H về xã Ph; có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên đã yêu cầu đối tượng dừng xe, kiểm tra. Khi nhìn thấy lực lượng Công an; nam thanh niên có hành vi thả các vật thể từ tay trái xuống mặt đường. Quá trình kiểm tra, Cơ quan Công an đã tiến hành khám xét, thu giữ, tạm giữ các đồ vật sau:

+ Phát hiện ở lề đường 01 điện thoại di động NOKIA loại bấm bàn phím;

+ Phát hiện ở vị trí cách chiếc điện thoại khoảng 05m; có 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong chứa 74 (bảy mươi tư) viên nén hình trụ tròn màu hồng, trên mỗi viên dập chữ WY, 01 viên nén hình trụ tròn màu xanh nghi là ma túy tổng hợp; và 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong chứa các cục chất màu trắng ngà, nghi là Heroine;

+ Tạm giữ 01 xe máy hãng HONDA Dream, màu nâu, không có biển kiểm soát Đối tượng khai tên là Trần Văn Ch (sinh năm 1996; trú tại bản Đ, xã Ph, huyện Q). Ch thừa nhận chiếc điện thoại NOKIA là tài sản của mình; nhưng khai không biết số ma túy thu giữ ở trên là của ai Tổ công tác đã tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong và thu giữ toàn bộ số tài sản, đồ vật nêu trên và đưa đối tượng về Trụ sở Công an xã Tr để làm việc.

Tại bản Kết luận giám định số 2646/MT- PC09 ngày 25/09/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

+ 74 (bảy mươi tư) viên nén hình trụ tròn màu hồng trên bề mặt mỗi viên có in dòng chữ WY của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 7,474g (bảy phẩy ba bảy bốn gam). Loại ma túy: Methamphetamine;

+ 01 (một) viên nén hình trụ tròn màu hồng trên bề mặt có in dòng chữ YI, một mặt có in chữ A của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,100g (không phảy một không không gam). Loại ma túy: Methamphetamine;

+ Các cục chất màu trắng ngà của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,252g (Một phẩy hai năm hai gam). Loại: Heroine Tổng khối lượng chất ma túy mà bị cáo tàng trữ là 7,574g (bảy phẩy năm bảy bốn gam) Methamphetamine và 1,252g (một phẩy hai năm hai gam) Heroine. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đều không có ý kiến gì về kết quả giám định.

Ngày 29/09/2020, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Q đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Trần Văn Ch về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Chuông khai nhận:

Khoảng 01 giờ sáng ngày 21/09/2020 Trần Văn Ch điều khiển xe máy hiệu HONDA Dream, không có biển kiểm soát đi từ bản T, xã Tr đến khu vực bản T, xã Tr, huyện M để tìm mua ma túy về sử dụng dần. Khi lên đến bản T, bị cáo hỏi mua ma túy với người đàn ông dân tộc Mông (không rõ tên tuổi, địa chỉ) với số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng); người đàn ông đưa cho bị cáo 01 gói nilon bên trong có chứa 74 viên trụ tròn màu hồng, 01 viên trụ tròn màu xanh là ma túy tổng hợp; và các cục vụn màu trắng ngà là Heroine. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cất giấu số ma túy trên vào lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe quay về đến khu vực bản C, xã Tr thì bị lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy mua được. Quá trình lấy lời khai ban đầu, do quá sợ hãi khi bị bắt quả tang nên Ch không thừa nhận số ma túy trên là của mình. Tuy nhiên quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai nhận số ma túy thu giữ là của mình mua về để sử dụng.

Vật chứng trong vụ án gồm có:

+ Toàn bộ bao gói mở niêm phong và 69 (sáu mươi chín) viên nén hình trụ màu hồng có tổng khối lượng 6,8870g (sáu phẩy tám tám bảy gam) và 1,166g (một phẩy một sáu sáu gam) chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn là mẫu vật còn lại sau giám định. Tất cả đựng trong một phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký, ghi rõ họ tên: Nguyễn Trần Đăng, Lê Minh Tiến, Đào Xuân Giang và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

+ Đối với 01 chiếc xe máy HONDA DREAM màu nâu không có biển kiểm soát: Quá trình điều tra xác định có Biển kiểm soát 33M9-9684; số máy 000133768, số khung 133768. Đây là tài sản hợp pháp của bị cáo mua lại với anh Lò Quang H (sinh năm: 2001, trú tại: bản Kh, Thị trấn H). Kết quả tra cứu thể hiện chiếc xe không phải tang vật trong vụ án khác Số vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng – Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Quan Hóa.

+ 01 điện thoại NOKIA loại bấm bàn phím. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo thông qua người đại diện theo ủy quyền là chị Trần Thị H (trú tại: bản Đ, xã Ph) Tại bản Cáo trạng số 03/CT-VKS- MT ngày 18 tháng 12 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa truy tố bị cáo Trần Văn Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS 2015 Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm n khoản 2 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 BLHS 2015. Xử phạt bị cáo Trần Văn Ch từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 21/09/2020 Bị cáo khai có mua ma túy với một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ tại bản T, xã Tr, huyện M Việc mua bán chỉ có 02 người biết với nhau; do đó không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

Ngoài ra, Đại diện Viện Kiểm sát còn đề nghị HĐXX giải quyết những vấn đề khác trong vụ án như xử lý vật chứng, án phí.

Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố; trong phần tranh luận các bị cáo không có ý kiến gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải, mong HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng một mức án nhẹ để bị cáo có cơ hội cải tạo, tu dưỡng thành người công dân có ích cho xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì. Do đó, mọi quyết định tố tụng, hành vi tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố; lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, Biên bản phạm tội quả tang; Biên bản, Kết luận giám định, và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã có hành vi mua, tàng trữ, cất giấu chất ma túy nhằm mục đích sử dụng, thỏa mãn cơn nghiện của bản thân. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về số ma túy thu giữ được trong quá trình bắt quả tang có khối lượng 7,574g (bảy phẩy năm bảy bốn gam) Methamphetamine và 1,252g (một phẩy hai năm hai gam) Heroine (tương đương khối lượng 8,826 (tám phảy tám hai sáu gam) Methamphetamine). Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thuộc trường hợp quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS. Quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước; làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo ý thức được hậu quả của ma túy đối với sức khỏe và đời sống xã hội cũng như sự ngăn cấm của pháp luật nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân; bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi của bị cáo phải bị xử lý nghiêm để đảm bảo răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt với bị cáo.

[5] Về hình phạt chính : Từ những căn cứ nêu trên, cần áp dụng quy định tại điểm n khoản 2, Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS 2015; xử phạt bị cáo một mức án nghiên khắc, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của mình.; cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, để bị cáo tích cực cải tạo, rèn luyện trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có công việc, thu nhập ổn định; bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về các tình tiết khác trong vụ án: Bị cáo khai có mua ma túy với một người đàn ông người Mông không rõ tên tuổi, địa chỉ tại bản T xã Tr . Việc mua bán chỉ có 02 người biết với nhau; do đó không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng:

+ Toàn bộ bao gói mở niêm phong và 69 (sáu mươi chín) viên nén hình trụ màu hồng có tổng khối lượng 6,8870g (sáu phẩy tám tám bảy gam) và 1,166g (một phẩy một sáu sáu gam) chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn là mẫu vật còn lại sau giám định. là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ. Do đó, cần áp dụng quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 47 BLHS 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 Chiếc xe HONDA DREAM màu nâu mang Biển kiểm soát 33M9-9684; xe đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội; nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tuyên tịch thu, nộp Ngân sách nhà nước

[9] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS 2015;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, Điều 331, 333 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên: Bị cáo Trần Văn Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

2. Xử phạt: Bị cáo Trần văn Ch 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/09/2020

3. Về xử lý vật chứng:

+ Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành bên trong có chứa toàn bộ bao gói mở niêm phong và 69 (sáu mươi chín) viên nén hình trụ màu hồng có tổng khối lượng 6,8870g (sáu phẩy tám tám bảy gam) và 1,166g (một phẩy một sáu sáu gam) chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn là mẫu vật còn lại sau giám định;

+ Tuyên tịch thu, nộp Ngân sách nhà nước 01 xe chiếc xe máy HONDA DREAM màu nâu mang Biển kiểm soát 33M9-9684; xe đã qua sử dụng Đặc điểm vật chứng thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 29/12/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Quan Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quan Hóa

4. Về án phí: Bị cáo Trần Văn Ch phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ nội dung bản án trong thời hạn 15 (mười lăm ngày); kể từ ngày tuyên án ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quan Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về