Bản án 01/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơnxét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H,tên gọi khác: không; sinh ngày: 01/4/1988, tại: Bỉm Sơn, Thanh Hóa; NĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 4, xã Q, thị xã B, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn V (đã chết), con bà Vũ Thị L- Còn sống; Bị cáo có vợ Nguyễn Thị H (chưa đăng ký kết hôn), có 01 con sinh năm 2017;Tiền án: không;Tiền sự: không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

- Người làm chứng: Vũ Văn Th, sinh năm 1996 Trú tại: thôn 4, xã Q, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt - Người chứng kiến: Đỗ Xuân L, sinh năm 1954 Trú tại: thôn 4, xã Q, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờngày 21/9/2020, tại cổng nhà nghỉ B, thuộc đường T, thôn 4, xã Q, thị xã B, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thị xã Bỉm Sơn phối hợp với Công an xã Q, thị xã B làm nhiệm vụ, phát hiện đối tượng Nguyễn Văn H có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính. Phát hiện thấy Công an, H liền ném từ tay phải 01 gói nhỏ nghi là ma túy xuống đất, cách vị trí đối tượng đang đứng khoảng 01mét thì bị phát hiện thu giữ. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong tang vật theo quy định.

Vật chứng và tài sản thu giữ gồm:

+ 01 (một) túi nilon màu trắng, kích thước túi khoảng ( 2x2)cm, bên trong túi có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng;

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen bạc, đã cũ, bên trong có sim thuê bao số 0866.133.134;

+ 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Cup 50 màu xanh đen, Biển kiểm soát 35FA- 2718 đã cũ.

Tại bản kết luận giám định số 2647/ PC09, ngày 25/9/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

+ Các hạt tinh thể dạng đá màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,292g (không phẩy hai chín hai gam) loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận: Do là bạn nghiện ma túy với Nguyễn Trọng D sinh năm 1988, trú tại khu phố 3, phường N, thị xã B, tỉnh T nên khoảng 21 giờ ngày 21/9/2020, H đang chơi nhà bạn thì D gọi điện thoại đến nhờ mua hộ 400.000đ ma túy đá, H nói với D “Nếu mua được cho tao xin một ít”. D đồng ý và bảo H đến nhà nghỉ B lấy tiền. H đi xe máy đến quầy lễ tân của nhà nghỉ, gọi điện thoại cho D, D đi từ tầng hai của nhà nghỉ B xuống gặp và đưa cho H 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). H cầm tiền và điều khiển xe máy đến đoạn đường đê thuộc khu vực phía Nam cổng phụ Chợ B mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy giá 400.000đ. Sau khi mua được ma túy, H đến bụi cây gần đó lấy ra một phần sử dụng hết, phần còn lại H cầm trên tay phải và quay lại gặp D nhưng chưa kịp đưa thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKSBS ngày 24/12/2020 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone màu đen bạc, đã cũ, bên trong có sim thuê bao số 0866.133.134;

Về án phí: đề nghị buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, điều tra viên; VKSND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai tại phiên tòa, phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp lệ, đủ cơ sở kết luận: vào khoảng 23 giờ 30 ngày 21/9/2020, tại cổng nhà nghỉ B, thuộc đường T, thôn 4, xã Q, thị xã B, Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,292g (không phẩy hai chín hai gam) ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.

Đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt áp dụng đối với bị cáo được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây phức tạp tình hình về tội phạm và tệ nạn về ma túy nên cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có một tình tiết giảm nhẹ là quá trình điều tra và tại phiên tòa thành thật khai báo. Vì vậy, khi lượng hình HĐXX áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được đường lối chính sách của pháp luật Nhà nước, từ đó cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản, thu nhập, bản thân phải chấp hành hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

Các vật chứng cơ quan điều tra thu giữ đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bỉm Sơn chuyển đến Chi Cục thi hành án dân sự thị xã Bỉm Sơn để bảo quản gồm:

01 (một)phong bì niêm phong mẫu vật do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá phát hành bên trong có chứa toàn bộ bao gói mở niêm phong và 0,232 g (không phẩy hai ba hai gam) các hạt tinh thể dạng đá màu trắng (là mẫu vật còn lại sau giám định). Vật chứng này là vật loại thuộc Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy; 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu đen bạc, bên trong có sim thuê bao số 0866.133.134 đã cũ là tài sản của bị cáo, khôngliên quan đến vụ án, nên trả lại cho bị cáo; như vậy là phù hợp với quy định tại điểm b, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về những vấn đề khác:

Nguyễn Trọng D không thừa nhận đã đưa tiền nhờ H đi mua ma túy, quá trình điều tra cũng không chứng minh được việc D đã đưa tiền nhờ bị cáo đi mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý đối với D.

Người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực bờ đê cổng phụ phía Nam chợ B theo bị cáo khai, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Nên miễn xét.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng áp phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo được kháng cáo bản án theo điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự, Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:Nguyễn Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (22/9/2020).

Về vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong bên trong chứa 0, 232 gam (không phẩy hai ba hai gam) Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau giám định) Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen bạc, đã cũ. (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Bỉm Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự Thị xã Bỉm Sơn ngày 29/12/2020).

Về án phí: áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng áp phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: áp dụng điều 331, 333, bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm(11/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bỉm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về