Bản án 01/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 07 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1) Huỳnh Văn Đ, sinh năm 1990; nơi sinh: huyện C, tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn) 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (chết) và bà Nguyễn Thị E; chưa có vợ con.

Tiền án: không, Tiền sự: không;

Nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, học đến lớp 01 nghỉ, lớn lên làm thuê sinh sống.

Bị tạm giữ, tạm giam ngày 26/09/2020 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2) Huỳnh Văn T, sinh năm 1989; nơi sinh: huyện C, tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn) 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn T (chết) và bà Nguyễn Thị H; vợ Huỳnh Thị U.

Tiền án: không, Tiền sự: không;

Nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, lớn lên làm thuê sinh sống. Bị tạm giữ, tạm giam ngày 27/10/2020 đến nay;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Nguyễn Trung H, sinh năm 1978; địa chỉ cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1) Huỳnh Thị U, sinh năm 1992; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt;

2) Nguyễn Văn D, sinh năm 1989; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt;

3 Nguyễn Văn K, sinh năm 1961; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

- Người làm chứng:

1) Nguyễn Thị T, sinh năm 1990;

2) Nguyễn Thị H, sinh năm 1969;

3) Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1985;

4) Huỳnh Văn C, sinh năm 1967;

5) Huỳnh Văn V, sinh năm 1973.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 20/5/2020, Huỳnh Văn Đ cùng với Huỳnh Văn T (em rể của Đ , Nguyễn Thị H, Huỳnh Văn C và Nguyễn Thị Kim P tổ chức uống rượu tại nhà của H ở ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang. Lúc này, Nguyễn Văn D (trong tình trạng say rượu nhớ lại chuyện mâu thuẫn trước đó với Đ, nên đến trước nhà Hồng chửi thề lớn tiếng, Đ, T ra kêu D về nhà, nhưng D tiếp tục chửi, thách thức đánh nhau với Đ, T. Tức giận, T dùng tay phải đánh trúng 01 cái vào vùng mặt làm D té ngã, bỏ chạy về nhà nói lại sự việc cho Nguyễn Văn K, Nguyễn Trung H (Cha, chú ruột của D biết, nên K mang theo chai xịt hơi cay hình trụ tròn cao 15cm, cùng H, D đến nhà H, để đánh nhau với Đ, T. Riêng, Đ, T sau khi đánh D thì đến quán nước của C cách nhà H khoảng 400m uống nước. Do T để quên cái áo ở nhà H, nên kêu Đ cùng quay lại lấy. Trước khi đi, Tài lấy 01 cây dao (cán dao bằng gỗ dài 15cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 35cm ở đống củi ven đường, đưa cho Đ cầm và nói “cầm đi, băng này dữ lắm, mang theo để phòng thân”, rồi cùng đi đến trước nhà H và khi này Đ lấy cây dao cất giấu vào đống củi gần đó. Khi thấy Đ, T đến, D dùng tay phải đánh trúng 01 cái vào vùng ngực của T, thì bị T dùng tay nắm tóc D ghì xuống đất, còn K xịt hơi cay vào vùng mặt của T; riêng H lấy 01 ống tuýp bằng kim loại dài khoảng 60cm đánh vào người Đ 02 đến 03 cái, làm Đ ngã xuống đường. Tức giận, Đ lấy cây dao của T đưa trước đó cầm trên tay phải, chém liên tiếp 04 đến 05 cái trúng vào cẳng tay trái, cánh tay, cổ tay và bàn tay phải của H, rồi cùng T bỏ chạy. H bị thương tích chảy nhiều máu, được gia đình đưa đến Trung tâm Y tế huyện cấp cứu và chuyển đến Bệnh viện đa khoa Trung tâm An Giang điều trị, đến ngày 29/5/2020 ra viện.

Vật chứng thu giữ: 01 cây dao (cán dao bằng gỗ dài 15cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 35cm ; 01 chai hình trụ tròn, màu đen cao 15cm.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 288/20/TgT ngày 21/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, ghi nhận thương tích của Nguyễn Trung H: Sẹo mặt sau 1/3 dưới cánh tay phải kích thước (7,2 x 0,8) cm, hơi cong, hai đầu nhọn, hơi lồi, sậm màu; Sẹo cổ, mu bàn tay phải kích thước (7 x 0,3) cm, sắc gọn, đứt gân duỗi chung các ngón, đứt gân duỗi cổ tay quay, đã phẩu thuật khâu nối gân duỗi; Sẹo mu bàn tay phải vòng qua kẻ ngón tay III – IV bàn tay phải kích thước (5,5 x 0,2) cm, hình vòng cung, đứt gân duỗi ngón IV, đã phẩu thuật khâu nối gân duỗi; Sẹo mặt lưng đốt 2 ngón II vòng vào trong đốt 1 ngón II bàn tay phải kích thước (6 x 0,3) cm, đứt gân duỗi, đã phẩu thuật khâu nối gân; Gãy đốt giữa ngón II, đã phẩu thuật kết hợp xương; Sẹo mặt ngoài 1/3 giữa cẳng tay trái kích thước (4 x 0,3) cm, đầu trên hơi cong, nhọn, đầu dưới sẹo có một vùng sẹo nông, phẳng, bờ không đều, sậm màu, kích thước (2,1 x 1) cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 16%.

Tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKSCM ngày 23 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn Đ và Huỳnh Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Văn Đ và bị cáo Huỳnh Văn T thừa nhận thực hiện hành vi cố ý gây thương tích như Cáo trạng truy tố, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Văn Đ và Huỳnh Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Huỳnh Văn Đ và Huỳnh Văn T có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo; gia đình bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả xong được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo khi quyết định hình phạt; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt: bị cáo Huỳnh Văn Đ từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; bị cáo Huỳnh Văn T 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 cây dao (cán dao bằng gỗ dài 15cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 35cm ; 01 chai hình trụ tròn, màu đen cao 15cm; Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã được bồi thường xong, không yêu cầu bồi thường thêm nên không xét.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu cũng như kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, thể hiện: Huỳnh Văn Đ và Huỳnh Văn T đã dùng dao là phương tiện nguy hiểm thực hiện gây thương tích cho ông Nguyễn Trung H. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” như đã viện dẫn ở trên. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng hành vi của bị cáo nhận thấy:

[3.1] Các bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ nhận thức, lẽ ra phải chấp hành đúng quy định của pháp luật, phải biết kiềm chế bản thân, trái lại bị cáo tỏ ra hung hăng, dùng dao “phương tiện nguy hiểm" để gây thương tích cho người khác, cho thấy hành vi của các bị cáo là cố ý phạm tội và rất nguy hiểm. Hành vi đó cần phải nghiêm trị để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật và tính mạng, sức khỏe của người khác.

[3.2] Các bị cáo phạm tội mang tính chất đồng phạm, tuy nhiên không có sự câu kết, tổ chức phân công chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn. Bị cáo T là người nhặt và đưa dao cho Đ cầm rồi cùng đi đến trước nhà H cất giấu vào đống củi cho thấy cả hai bị cáo cùng chuẩn bị phương tiện là dao để gây thương tích cho nên phải cùng chịu trách nhiệm. Mặt khác, bị cáo Đ là người trực tiếp gây thiệt hại cho người bị hại cho nên phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo T.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; gia đình các bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả xong được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về vật chứng: 01 cây dao (cán dao bằng gỗ dài 15cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 35cm ; 01 chai hình trụ tròn, màu đen cao 15cm bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và là vật không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về dân sự:

[6.1] Người bị hại Nguyễn Trung H được gia đình bị cáo bồi thường số tiền 45.000.000đồng, không yêu cầu bồi thường thêm nên không xét đến.

[6.2] Bà Huỳnh Thị U đã bồi thường cho người bị hại Nguyễn Trung H số tiền 45.000.000đồng. Bà U không yêu cầu bị cáo Huỳnh Văn T và Huỳnh Văn Đ hoàn trả lại nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Đối với các hành vi khác:

[7.1] Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn K bị Huỳnh Văn T đánh, nhưng thương tích không đáng kể, D, K từ chối giám định, không yêu cầu xử lý đối với Đ, T; Về dân sự: trong quá trình điều tra, D yêu cầu người gây thương tích cho mình bồi thường tiền thuốc điều trị số tiền là 135.992đồng. Tại phiên tòa, D xác định không yêu cầu bồi thường nên không xét đến.

[7.2] Hunh Văn Đ, Huỳnh Văn T bị Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K và Nguyễn Trung H đánh, nhưng thương tích không đáng kể, nên Đ, T từ chối giám định, không yêu cầu xử lý đối với D, K, H.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 , đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn Đ 02 (Hai năm 06 (Sáu tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 26/9/2020 (ngày hai mươi sáu, tháng chín, năm hai nghìn không trăm hai mươi);

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 02 (Hai năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 27/10/2020 (ngày hai mươi bảy, tháng mười, năm hai nghìn không trăm hai mươi).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1 , đ được sửa đổi, bổ sung năm 17; điểm a, c khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ: 01 cây dao (cán dao bằng gỗ dài 15cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 35cm ; 01 chai hình trụ tròn, màu đen cao 15cm (Hiện vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/01/2021).

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Huỳnh Văn Đ và Huỳnh Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về