Bản án 01/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện NT xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 194/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn K, sinh năm 1991 tại tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: ấp S, xã V, huyện NT, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 11/8/2011, bị cáo K bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm xử phạt 09 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/5/2017 nhưng đến nay chưa chấp hành hình phạt bổ sung.

Tiền sự: Ngày 24/12/2018, bị cáo K bị Tòa án nhân dân huyện NT ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, bị cáo chấp hành xong ngày 24/10/2019.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/8/2020. Bị cáo có mặt.

- Người làm chứng:

+ Chị Thân Thị Quỳnh N, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã V, huyện NT, tỉnh Đồng Nai.

+ Ông Nguyễn Đình H, sinh năm 1958 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã V, huyện NT, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 15/8/2020, Nguyễn Văn K sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia sim số 0979.394.628 điện thoại cho Tuấn Phúc (chưa rõ nhân thân) hỏi mua một gói ma túy với giá 3.000.000đ, Phúc đồng ý và hẹn K đến ngã ba đường hẻm vào nhà K thuộc ấp S, xã V, huyện NT, tỉnh Đồng Nai để giao ma túy. Đến 10 giờ cùng ngày, K đi bộ đến ngã ba gặp Phúc và đưa cho P số tiền 3.000.000đ, P đưa cho K một gói ma túy. K lấy gói ma túy vừa mua được đem về nhà rồi lấy một ít ra sử dụng, số ma túy còn lại K phân ra thành 03 tép nhỏ và 01 gói lớn bỏ vào bao thuốc lá Jet và cất giấu dưới gầm tủ lạnh nhằm mục đích sử dụng.

Đến 09 giờ ngày 25/8/2020, có Thân Thị Quỳnh N là bạn gái của K đến phòng trọ Kiên chơi, tại đây K rủ N cùng nhau sử dụng ma túy, khi K và N cùng nhau chuẩn bị sử dụng ma túy thì Công an xã V tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá Jet bên trong có 01 gói và 03 tép ma túy mà Kiên đã cất giấu dưới gầm tủ lạnh. Công an xã V tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và chuyển giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NT để điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Tang vật thu giữ gồm:

+ 01 gói nylon hàn kín và 03 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng.

+ 01 vỏ bao thuốc lá Jet, 01 cân tiểu ly, 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh; 01 hộp quẹt ga, 01 chiếc kéo.

+ 03 đoạn ống hút nhựa dài 15cm bên trong không chứa gì, 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, đầu còn lại cắt nhọn dài 10cm.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, gắn sim 0979394628 Tại bản kết luận giám định số 2033/KLGĐ-PC09 ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Một phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên phong bì có các chữ ký, ghi họ và tên Nguyễn Văn K, Nguyễn Đình H và hình dấu tròn màu đỏ của Công an xã V, huyện NT. Sau khi mở niêm phong, bên trong phong bì có một gói nylon và 03 đoạn ống hút nhựa hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 3,8508 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 177/CT.VKS-NT ngày 23/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện NT đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NT, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 03 năm đến 04 năm tù.

+ Về biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Jet, 01 cân tiểu ly, 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh; 01 hộp quẹt ga, 01 chiếc kéo, 03 đoạn ống hút nhựa dài 15cm bên trong không chứa gì, 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, đầu còn lại cắt nhọn dài 10cm và một sim điện thoại số 0979394.628.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh của bị cáo K.

Bị cáo Nguyễn Văn K không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện NT.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Văn K tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NT, Viện kiểm sát nhân dân huyện NT, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Người làm chứng là ông Nguyễn Đình H và chị Thân Thị Quỳnh N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, ông H và chị N đã có lời khai tại hồ sơ và việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt ông H và chị N.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn K đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án.

Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào ngày 25/8/2020 tại ấp S, xã V, huyện NT, Nguyễn Văn K đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 3,8508 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện NT đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo K mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo K có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, bị cáo khai việc làm và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn K có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Jet, 01 cân tiểu ly, 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh; 01 hộp quẹt ga, 01 chiếc kéo, 03 đoạn ống hút nhựa dài 15cm bên trong không chứa gì, 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, đầu còn lại cắt nhọn dài 10cm và một sim điện thoại số 0979394.628.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh của bị cáo K sử dụng làm phương tiện phạm tội.

[8] Đối với người bán ma túy cho bị cáo K do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NT tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 03 (ba) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày 25/8/2020.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định số 2033/KLGĐ-PC09 ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sữ Công an tỉnh Đồng Nai, 01 vỏ bao thuốc lá Jet, 01 cân tiểu ly, 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh; 01 hộp quẹt ga, 01 chiếc kéo, 03 đoạn ống hút nhựa dài 15cm bên trong không chứa gì, 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, đầu còn lại cắt nhọn dài 10cm và một sim điện thoại số 0979.394.628.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh của bị cáo Nguyễn Văn K.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện NT đang lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/11/2020).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về