Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 202/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020 (Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020), giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị O, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng, có mặt;

Bị đơn: Ông Nguyễn Thế S, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn (bà Phạm Thị O) trình bày: Bà và ông Nguyễn Thế S tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1998 nhưng đến ngày 03/8/2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống ông bà thường xuyên bất đồng quan điểm sống, một phần do ông S ham chơi cờ bạc, thường chửi bới vợ con, bà O và gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, vợ chồng vẫn thường xuyên xô sát, cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Cuối năm 2019, do mâu thuẫn căng thẳng, ông bà đã sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ, bà O yêu cầu ly hôn ông S. Ông bà có hai con chung là Nguyễn Thế Sang, sinh ngày 04/11/1998 và Nguyễn Thế Hai, sinh ngày 19/7/2005. Khi ly hôn, bà đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Thế H cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng cho con bà xin tự thỏa thuận với ông S; con Nguyễn Thế S đã trưởng thành, không phải nuôi dưỡng. Bà O xin tự thỏa thuận với ông S về tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông S nhiều lần, yêu cầu ông S giao nộp bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án nhưng ông S không thực hiện.

Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Mâu thuẫn vợ chồng bà O, ông S là do bất đồng quan điểm sống, một phần do ông S ham chơi cờ bạc, nợ nần nhiều làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Ông bà có hai con chung như bà O trình bày; con lớn đã trưởng thành, không phải nuôi dưỡng; con nhỏ do bà O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ khi ông bà sống ly thân đến nay. Nay bà O xin ly hôn ông S và nhận trực tiếp nuôi con nhỏ, Tòa án nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn, nhận trực tiếp nuôi con của bà O.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn (bà O) vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn (ông S) vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về phiên họp, hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không có mặt tại phiên họp, hòa giải và tại phiên tòa là chưa thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà O, xử cho bà Phạm Thị O được ly hôn ông Nguyễn Thế S; giao con Nguyễn Thế Hai cho bà O trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng cho con và về tài sản và nợ chung bà O xin tự thỏa thuận với ông S, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra để giải quyết; cong Nguyễn Thế Sang đã trưởng thành, không phải nuôi dưỡng; bà O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1]. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình (ly hôn, tranh chấp nuôi con); bị đơn (ông Nguyễn Thế S) có đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở tại thôn Thủy Hưng, xã Đ, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn (ông S) đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không chấp hành triệu tập của Tòa án. Tòa án đã thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ văn bản tố tụng; sao gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho ông S thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc ông S không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án là tự từ bỏ các quyền và không chấp hành nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp và Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

[3]. Bị đơn (ông S) vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông S.

- Về nội dung:

[4]. Về quan hệ hôn nhân: Lời khai của nguyên đơn phù hợp với tài liệu xác minh tại địa phương, thể hiện: Quan hệ hôn nhân giữa bà O, ông S được xác lập do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ vào ngày 03/8/2007, là hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn phát sinh do bất đồng quan điểm sống, một phần do ông S ham chơi cờ bạc, nợ nần nhiều, ít quan tâm tới gia đình nên vợ chồng thường hay xô sát, cãi nhau, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Tháng 12 năm 2019, do mâu thuẫn căng thẳng, bà O, ông S đã sống ly thân và không còn quan tấm tới nhau đến nay. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng bà O, ông S đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; yêu cầu ly hôn của bà O là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận, xử cho bà O được ly hôn ông S.

[5]. Về con chung: Ông bà có hai con chung là Nguyễn Thế S, sinh ngày 04/11/1998 và Nguyễn Thế H, sinh ngày 19/7/2005. Từ khi ông bà sống ly thân nhau đến nay con Nguyễn Thế H do bà O chăm sóc, nuôi dưỡng tốt; con Nguyễn Thế S đã trưởng thành, không phải nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà O đề nghị Tòa án giao con Thế H cho bà trực tiếp nuôi dưỡng. Xét, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bà O làm nghề buôn bán, có thu nhập ổn định; ông S làm nghề lao động tự do, bản thân nợ nần nhiều. Như vậy có thể thấy, điều kiện nuôi con hiện nay của bà O tốt hơn ông S; quá trình giải quyết vụ án, cháu Hai có nguyện vọng được ở với mẹ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà O, xử giao con Nguyễn Thế H cho bà O trực tiếp nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng cho con, vì bà O xin tự thỏa thuận với ông S, không yêu cầu Tòa án giải quyết, tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, xét thấy quyền lợi của con vẫn được đảm bảo nên để ông bà tự giải quyết với nhau là phù hợp.

[6]. Về tài sản và nợ chung: Bà O xin tự giải quyết với ông S về tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[7]. Về án phí: Bà Phạm Thị O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị O, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị O được ly hôn ông Nguyễn Thế S.

2. Về con chung: Giao con Nguyễn Thế H, sinh ngày 19/7/2005 cho bà Phạm Thị O trực tiếp nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi con tính từ ngày 15 tháng 01 năm 2021 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, việc cấp dưỡng cho con ông bà tự giải quyết với nhau. Con Nguyễn Thế S, sinh ngày 04/11/1998 đã trưởng thành, không phải nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về án phí: Bà Phạm Thị O phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Bà O đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0011921 ngày 14 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng. Như vậy, bà O đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về