TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH: LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 387/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình: Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 161/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Cẩm L, sinh năm 1984 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp TBT, xã VT, huyện TS, tỉnh An Giang
- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1978 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp TBT, xã VT, huyện TS, tỉnh An Giang
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Ngô Thị Cẩm L trình bày:
- Về hôn nhân: Chị L và anh P do mai mối nên tiến đến hôn nhân năm 2004, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn ngày 01/12/2010 tại UBND xã VT, huyện TS. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu do anh P thường xuyên nhậu say rồi đánh đập vợ con vô cớ, mặc dù chị L đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh P vẫn không thay đổi tính tình nên chị L dẫn theo các con bỏ đi từ năm 2011 đến nay. Trong thời gian chị L bỏ đi, chị và anh P không liên lạc với nhau, hai bên gia đình cũng không có ý kiến hàn gắn. Nay nhận thấy không còn tình cảm với anh P, không thể tiếp tục chung sống nên chị L yêu cầu L hôn anh P.
- Về con chung: Quá trình sống chung chị L và anh P có 02 (hai) con chung tên: Nguyễn Văn V, sinh ngày 20/10/2005; Nguyễn Thị Kim Ll, sinh ngày 25/9/2007. Hiện nay hai cháu đang sống chung với chị L, khi ly hôn chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng.
- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tổ chức các phiên hòa giải để chị L và anh P thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh P nhưng anh P từ chối không nhận văn bản và vắng mặt không lý do nên việc hòa giải không tiến hành được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh P từ chối nhận văn bản và vắng mặt không lý do.
Tại phiên tòa: Chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ly hôn với anh P và yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Anh P vắng mặt đến lần thứ hai không lý do và không có văn bản nêu ý kiến nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn trình bày quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi. Anh P vắng mặt lần thứ hai không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị L được ly hôn anh P. Về con chung, giao cháu Nguyễn Văn V và Nguyễn Thị Kim L1 cho chị Ngô Thị Cẩm L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, ghi nhận chị L không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung: Không xem xét. Chị Ngô Thị Cẩm L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Ngô Thị Cẩm L và anh Nguyễn Thanh P chung sống với nhau có đăng ký kết hôn (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 126, quyển số 01 do UBND xã VT, huyện TS cấp ngày 01/12/2010). Anh Nguyễn Thanh P có hộ khẩu thường trú tại: Ấp TBT, xã VT, huyện TS, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa, anh Nguyễn Thanh P vắng mặt không lý do, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.
[3] Xét việc tranh chấp:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh P xác lập quan hệ hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 01/12/2010 tại UBND xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
Theo chị L trình bày nguyên nhân mâu thuẫn do anh P thường xuyên nhậu say và đánh đập vợ con vô cớ, không chăm lo kinh tế gia đình, nuôi dạy các con. Mặc dù chị L đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh P không thay đổi tính tình nên chị đã bỏ đi và sống ly thân với anh P từ năm 2011 đến nay.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng anh P vắng mặt không lý do nên không thể tiến hành hòa giải được.
[3.2] Xét thấy, mối quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh P không thể hàn gắn vì đời sống chung của vợ chồng không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong thời gian không chung sống cả hai cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L.
[4] Về con chung: Căn cứ trình bày của chị Ngô Thị Cẩm L thì trong thời kỳ hôn nhân chị L và anh P có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Văn V, sinh ngày 20/10/2005 và Nguyễn Thị Kim Ll, sinh ngày 25/9/2007. Khi ly hôn, chị L yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến của cháu Vũ và cháu Kim L1 đã thể hiện nguyện vọng của các cháu muốn sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Hội đồng xét xử xét yêu cầu của chị L phù hợp nguyện vọng của cháu Vũ, cháu Kim L1, đồng thời việc giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đảm bảo sự ổn định về tâm lý và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu nên yêu cầu của chị L là có cơ sở chấp nhận. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã giải thích cho chị L về quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với người trực tiếp nuôi con chung, cũng như nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con chung nhưng chị L vẫn giữ nguyên ý kiến của mình, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định công nhận sự tự nguyện của chị L trong việc không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh P không có văn bản nêu ý kiến và yêu cầu nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.
[6] Về nợ chung: Theo trình bày của chị L không có nợ chung, anh P vắng mặt và cũng không có văn bản nêu ý kiến và yêu cầu nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.
[7] Về án phí: Chị Ngô Thị Cẩm L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định. Anh Nguyễn Thanh P không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ các điều 28, 35, 39, 147, 22 7, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Cẩm L.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Cẩm L được L hôn anh Nguyễn Thanh P.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn V, sinh ngày 20/10/2005 và Nguyễn Thị Kim L1, sinh ngày 25/9/2007 cho chị Ngô Thị Cẩm L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Ngô Thị Cẩm L không yêu cầu anh Nguyễn Thanh P cấp dưỡng nuôi con.
Anh Nguyễn Thanh P và các thành viên trong gia đình (nếu có) phải tôn trọng quyền được nuôi con của chị Ngô Thị Cẩm L. Chị Ngô Thị Cẩm L và các thành viên trong gia đình (nếu có) không được cản trở anh Nguyễn Thanh P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Chị Ngô Thị Cẩm L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004066 ngày 12/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn.
Anh Nguyễn Thanh P không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Các đương sự không phải chịu các chi phí tố tụng khác.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Giấy chứng nhận kết hôn số 126, quyển số 01 do UBND xã VT, huyện TS cấp ngày 01/12/2010 cho chị Ngô Thị Cẩm L và anh Nguyễn Thanh P không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình: ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 01/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về