Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NL, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện NL, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 217/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hà Thị L; sinh năm: 1994; HKTT: Thôn MT, xã LS, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá; chỗ ở hiện nay: Thôn NB, xã NA, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá.

- Bị đơn: Anh Lê Thế T; sinh năm: 1991; HKTT: Thôn MT, xã LS, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá; chỗ ở hiện nay: Thôn MT, xã LS, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá.

Tại phiên toà có mặt chị L, anh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07/9/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Hà Thị L trình bày: Chị và anh Lê Thế T kết hôn tự nguyện, đăng ký ngày 10/02/2014 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã LS, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm. Ngoài ra, anh T không chịu tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Chị đã nộp đơn ly hôn lên Toà án nhưng sau đó nghĩ vì con nên chị đã rút đơn, nhưng đến nay anh T vẫn không thay đổi. Không chịu được cuộc sống như vậy nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Vợ chồng chị sống ly thân từ tháng 02/2020 cho đến nay, không ai quan tâm tới ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Anh TH, sinh ngày 29/4/2016. Hiện cháu đang ở với chị. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu TH, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị L không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên toà, bị đơn là anh Lê Thế T trình bày: Về ngày kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như nguyên đơn trình bày. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng không có phát sinh mâu thuẫn gì, sau khi chị L đi làm ở ngoài về thì muốn ly hôn anh, anh thấy vợ chồng vẫn còn tình cảm, có thể đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Anh TH, sinh ngày 29/4/2016. Hiện cháu đang ở với chị L. Nếu ly hôn, anh giao cháu TH cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), TH ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS); chị L đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật, anh T không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử cho chị Hà Thị L được ly hôn anh Lê Thế T. Giao cháu Lê Anh TH, sinh ngày 29/4/2016 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Theo ý kiến trình bày của hai bên đương sự: Chị L và anh T thống nhất được về phần con cái, không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản, không thống nhất được về phần hôn nhân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự nhưng anh Lê Thế T không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh T theo quy định tại khoản 3 điều 210 BLTTDS.

Anh T đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh T đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.

[2] Về hôn nhân: Chị Hà Thị L và anh Lê Thế T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 10/02/2014 tại UBND xã LS, huyện NL, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm. Hiện hai vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm tới ai, vấn đề này cũng đã được UBND xã LS xác nhận. Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập anh T lên làm việc để hoà giải đoàn tụ vợ chồng nhưng anh T đều không có mặt, thể hiện anh T không thiết tha hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó chứng tỏ chị L, anh T đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nghĩ nên căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị L được ly hôn anh T.

[3] Về con cái: Chị L và anh T có 01 con chung. Chị L và anh T đều có nguyện vọng giao cháu TH cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, hiện tại cháu đang ở với chị L. Để không bị xáo trộn cuộc sống và đảm bảo sự phát triển ổn định về mọi mặt cho cháu, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị L và anh T, giao cháu TH cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận ý kiến của chị L, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản: Chị L, anh T không yêu cầu nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị L được ly hôn anh Lê Thế T.

2. Về con cái: Giao cháu Lê Anh TH, sinh ngày 29/4/2016 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh T có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hà Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện NL, theo biên lai số AA/2019/0012046 ngày 14/10/2020. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị L, anh T. Chị L, anh T có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về