Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 339/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 333/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 344/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Trà M, sinh năm 1994;

Nơi cư trú: số nhà A tổ S, ấp PT, xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoài P, sinh năm 1993; Nơi cư trú: ấp AH, xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre.

(Chị M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Anh P vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trà M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hoài P kết hôn năm 2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BKĐ (nay là xã BK), huyện M, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng làm công nhân tại quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, vợ chồng cùng nhau làm ăn chăm lo phát triển kinh tế gia đình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến đầu năm 2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh P mê cờ bạc, nhậu nhẹt, chị đã khuyên anh P nhiều lần nhưng anh P vẫn không thay đổi. Do đó, vợ chồng đã ly thân từ ngày 01/8/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng mạnh ai nấy sống. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh P.

Về con chung: Chị và anh P có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Hoài N, sinh ngày XYZ. Hiện nay con chung đang sống chung với chị và cha mẹ chị tại tổ S, ấp PT, xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre. Chị đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh, cuối tuần chị về nhà cha mẹ để chăm sóc con. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh P tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị và anh P không có nợ chung.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Hoài P được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh P vắng mặt không lý do.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị M đối với bị đơn anh P, cụ thể: chị M được ly hôn với anh P; Về con chung: giao cháu Nguyễn Hoài N, sinh ngày XYZ cho chị M tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, anh P không phải cấp dưỡng nuôi con do chị M không có yêu cầu; Về tài sản chung: chị M không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; Về nợ chung: chị M khai không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Trà M khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Hoài P, đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, ngoài ra chị M không có yêu cầu nào khác. Căn cứ đơn khởi kiện ngày 10/8/2020 (BL 03-04) cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo quy định tại Điều 51 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị M khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh P, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Hoài P có nơi cư trú tại ấp AH, xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện M có thẩm quyền giải quyền giải quyết vụ án.

[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Anh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, chị M có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh P và chị M.

Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2016, chị M và anh P tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BKĐ (nay là xã BK), huyện M, tỉnh Bến Tre. Việc đăng ký kết hôn giữa chị M và anh P là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Tại đơn khởi kiện (BL 03-04) và Biên bản lấy lời khai ngày 28/10/2020 (BL 25 -26), chị M trình bày hiện nay vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Tại biên bản làm việc ngày 23/11/2020 với bà Lê Thị L (mẹ đẻ chị M) cho biết như sau: "…Khi về nhà tôi ở thì tôi thấy cháu P thường mang gà đi đá, đồng thời M cũng thường kể cho tôi nghe là P mê đá gà, không lo chăm sóc vợ con, không đưa tiền phụ chăm sóc con cái. Thời gian gần đây thì tôi thấy thái độ P không còn như xưa, khi về nhà tôi khi không chào hỏi, khi đi cũng không nói. Đến tháng 8/2020 thì con tôi quyết định đã dọn ra sống riêng, không còn sống chung với P nữa…". Bên cạnh đó, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập anh P đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa anh và chị M nhưng anh P không có mặt. Ngoài ra, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và các tài liệu chứng cứ của chị M cho anh P nhưng anh P không có mặt cũng như không có ý kiến phản đối với yêu cầu ly hôn của chị M.Từ các tài liệu chứng cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị M và anh P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là phù hợp.

[5] Về con chung: Chị M khai chị và anh P có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Hoài N, sinh ngày XYZ. Hiện nay con chung đang do chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao cháu N cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của chị M tạm thời không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung: Chị M trình bày tài sản chung để vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: Chị M khai không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định: "Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn …". Vì vậy, chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trà M về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" đối với bị đơn anh Nguyễn Hoài P, cụ thể như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Trà M được ly hôn với anh Nguyễn Hoài P.

- Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Hoài N, sinh ngày XYZ. Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị Trà M là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Trà M tạm thời không yêu cầu anh Nguyễn Hoài P cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Hoài P có quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Trà M khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Trà M khai không có nên không xem xét.

2. Án phí: Chị Nguyễn Thị Trà M phải chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số ABC ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre (đã nộp xong).

3. Chị Nguyễn Thị Trà M và anh Nguyễn Hoài P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về