Bản án 01/2021/DS-ST ngày 05/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 01/2021/DS-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:23/2020/TLST-DS ngày 16 tháng 10 năm 2020, về việc:“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXX-ST ngày 15 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/QĐST – DS, ngày 05 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị O, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn Lam C2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1971 Chị Phạm Thị M, sinh năm 1976 Địa chỉ: Thôn Lam C2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

(có mặt chị O, vắng mặt anh P, chị M)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Ngô Thị O trình bày:

Năm 2016 vợ chồng anh Nguyễn Văn P và Chị Phạm Thị M, địa chỉ: Thôn Lam C2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình làm ăn khó khăn trong kinh tế nên đã nhiều lần đến gặp chị hỏi vay tiền. Do quan hệ giữa anh Nguyễn Văn P và anh Nguyễn Đức Vinh (chồng chị O) là anh em họ. Chị O đã tin tưởng và cho vay lần đầu với số tiền là 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu đồng). Năm 2017 vợ chồng anh P và chị M lại tiếp tục nhiều lần đến vay tiếp. Chị O lại tiếp tục cho vay với số tiền 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng). Các lần vay không có người làm chứng, không có giấy tờ vay, lãi xuất tính theo lãi xuất ngân hàng tại thời điểm vay, không ấn định thời hạn trả.

Ngày 30/01/2018 (âm lịch) chị O thấy vợ chồng anh P, chị M vay tiền đã đến hạn trả nợ mà không trả nợ. Chị O đã viết giấy chốt toàn bộ số tiền mà anh P, chị M đã vay với tổng số tiền là 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng chẵn) có chữ ký của anh P, chị M. Quan điểm của chị O là yêu cầu anh Nguyễn Văn P và Chị Phạm Thị M phải trả chị số tiền gốc là 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng) theo giấy nhận nợ đã ký vào ngày 30/01/2018 (âm lịch) có cả chữ ký của anh Nguyễn Văn P và Chị Phạm Thị M. Chị O không yêu cầu anh P, chị M phải trả lãi suất kể từ khi vay cho đến thời điểm xét xử. Về P án trả nợ như anh P đưa ra là năm 2020 trả 70.000.000 đồng, số còn lại trả vào 03 năm tiếp theo, chị không nhất trí.

Số tiền 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng) mà anh P, chị M đã nhận nợ ngày 30/01/2018 (âm lịch) là số tiền của chị O không liên quan gì đến chồng chị là anh Nguyễn Đức Vinh, sinh năm 1981. Địa chỉ tại Thôn Lam C2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Anh Nguyễn Văn P là bị đơn vắng mặt nhưng đã có bản khai với nội dung: Anh thừa nhận chữ ký và chữ viết “Nguyễn Văn P” trong giấy ghi nợ ngày 30/01/2018 (âm lịch) với số tiền 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng) là đúng chữ ký và chữ viết của anh. Anh P đã nhận tiền vào các năm 2016; năm 2017 và chuyển khoản vào ngày 22/08/2017 nhưng không có chứng cứ lưu lại việc nhận tiền này. Anh đồng ý trả chị O 530.000.000 đồng theo P án trả nợ là năm 2020 trả 70.000.000 đồng, số còn lại trả vào 03 năm tiếp theo.

Chị Phạm Thị M là bị đơn vắng mặt nhưng đã có bản khai và trong Biên bản lấy lời khai chị M trình bày: Chị M thừa nhận chữ ký và chữ viết “Phạm Thị M” trong giấy chốt nợ ngày 30/01/2018 (âm lịch) với số tiền 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng) là đúng chữ ký và chữ viết của chị. Chị M và anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn Lam C2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là vợ chồng. Chị M và anh P có quan hệ với vợ chồng anh Nguyễn Đức Vinh và chị Ngô Thị O là họ hàng. Vào thời điểm cuối năm 2018 anh P có vay tiền của chị O (vợ anh Vinh) việc vay mượn làm nhiều lần và có tính lãi suất theo lãi xuất ngân hàng tại thời điểm vay, các lần vay đó thì chị M không ký vào giấy vay tiền mà chị O chỉ đưa tiền cho nhau. Chị M có nhận 02 lần bằng tiền mặt, cụ thể là 01 lần 20.000.000 đồng và 01 lần 50.000.000 đồng, chị không nhớ thời gian cụ thể. Khi chị M nhận tiền cũng không ký vào giấy nhận tiền mà chỉ đến khi chốt nợ mới đến ký vào sổ vay tiền do chị O lập. Còn lại các lần khác thì do chồng chị là anh P nhận. Việc chị O khởi kiện đòi vợ chồng anh P chị M phải trả số tiền 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng) quan điểm của chị M là chỉ trả số tiền gốc 530.000.000 đồng, còn lại tiền lãi thì anh P và chị M không có khả năng trả. Việc tính lãi suất chị M không biết cụ thể là bao nhiêu, trường hợp chị O không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền 530.000.000 đồng chị M không có ý kiến gì. Đối với bản khai mà anh P đã trình bày tại Tòa án số tiền cụ thể mà anh P đã nhận, chị M không có ý kiến gì. Về P án trả nợ mà anh P đã trình bày là năm 2020 trả 70.000.000 đồng, số còn lại trả vào 03 năm tiếp theo quan điểm của chị M là đồng ý với ý kiến của anh P.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn là chị M và anh P vắng mặt tại phiên toà do đó Viện kiểm sát không phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của bị đơn.

- Về nội dung:

Áp dụng các Điều 116, 117, 118, 119, Điều 463, 466 và Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Ngô Thị O: Buộc Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P phải trả toàn bộ số tiền gốc là 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng), chị O không yêu cầu chị M và anh P phải trả lãi suất về khoản tiền đã vay do đó không xem xét. Về án phí: Chị M và anh P chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, trả lại chị O số tiền tạm ứng án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét toàn bộ các tài liệu chứng cứ và ý kiến của các đương sự tại các lời khai và tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Ngô Thị O khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P có địa chỉ tại thôn Thôn Lam C2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình Tại phiên tòa ngày 05/02/2021, Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa lần thứ hai (ngày 05/3/2021), Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P tiếp tục vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P là đúng quy định.Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ra quyết định yêu cầu anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1971 và Chị Phạm Thị M, sinh năm 1976 (là bị đơn) cung cấp cho Tòa án các biên bản giao nhận tiền vào các năm 2016; năm 2017 và các chứng cứ, tài liệu liên quan đến việc giao nhận tiền hoặc chứng từ liên quan đến việc chuyển khoản vào ngày 22/08/2017 như anh P trình bày trong bản tự khai nhưng anh P và chị M không cung cấp được. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình giải quyết là đúng thẩm quyền. Xét xử vắng mặt Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P là đúng quy định.

[2] Áp dụng pháp luật giải quyết: Hợp đồng vay tài sản giữa chị Ngô Thị O với Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P được ký kết vào ngày 30/01/2018 (âm lịch), thời điểm Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực pháp luật, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định tại các các Điều 116, 117, 118, 119 Điều 463, 466, 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015, có giá trị pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, nên căn cứ vào các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về yêu cầu trả nợ gốc: Chị Ngô Thị O yêu cầu Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P phải trả số tiền 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng). Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai chị M và anh P thừa nhận có vay của chị Ngô Thị O với số tiền 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng), các bên có biên bản chốt nợ vào ngày 30/01/2018 (âm lịch), có chữ viết và chữ ký của chị M và anh P. Tuy nhiên do kinh tế khó khăn nên chị M, anh P chưa trả được. Căn cứ các Điều 463, 466, 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu của chị O về việc buộc chị M và anh P phải trả số tiền gốc là 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng).

[3.2] Đi với yêu cầu lãi suất: Chị O không yêu cầu chị M và anh P phải trả lãi suất kể từ khi vay đến thời điểm xét xử đối với khoản tiền vay 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng), do đó không xem xét giải quyết về lãi suất theo Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Ngô Thị O được chấp nhận cho nên bị đơn Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Cần trả lại chị O số tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số seri: AA/2020 số 0004574 ngày 16/10/2020 với số tiền là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147, khỏan 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 116, 117, 118, 119, 463, 466 và Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử 1. Chấp nhận yêu cầu của chị Ngô Thị O về việc buộc Chị Phạm Thị M, sinh năm 1976 và anh Nguyễn Văn P sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn Lam C2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phải trả số tiền 530.000.000 đồng (năm trăm ba mươi triệu đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về lãi suất: Chị Ngô Thị O không yêu cầu Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P phải trả lãi suất kể từ khi vay đến thời điểm xét xử đối với khoản tiền vay 530.000.000 đồng (Năm trăm ba mươi triệu đồng). Do đó không xét.

3. Về án phí: Buộc Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P phải chịu 25.200.000 đồng (Hai mươi lăm triệu hai trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả trả lại chị Ngô Thị O số tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số seri: AA/2020 số 0004574 ngày 16/10/2020 với số tiền là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Chị Ngô Thị O có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 05/3/2021). Chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn P có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/DS-ST ngày 05/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:01/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về