Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 20/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2020 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 250/2019/TLST-HNGĐ ngày 04-12-2019 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị U, sinh năm 1982 (Vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm 1973 (Vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/8/2019, biên bản hòa giải ngày 30/12/2019 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 30/12/2019, nguyên đơn bà Lê Thị U trình bày:

Bà và ông Trần Văn C chung sống với nhau từ năm 1999 đến nay không đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống thật sự hạnh phúc được khoảng 06 tháng 1 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xuyên xảy ra cãi nhau, trong lúc cãi nhau ông C có vài lần đánh bà bằng tay, vì thương con nên bà cố gắng nhẫn nhịn nhưng ông C vẫn không thay đổi tính tình, cho đến khoảng tháng 7 năm 2019 ông C còn ghen tuông vô cớ và tiếp tục đánh bà nên vợ chồng thật sự ly thân nhau từ đó đến nay.

Về quan hệ nuôi con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung tên Trần Văn T, sinh ngày 19/02/2000, Trần Thị Mỹ Tr, sinh ngày 11/02/2005 và Trần Thị Bích Th, sinh ngày 11/8/2006.

Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng không tài sản chung.

Về quan hệ nợ chung: Vợ chồng không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng.

Nay yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn với ông Trần Văn C;

2. Về quan hệ nuôi con chung: Hiện Trần Văn T, sinh năm 2000 đã thành niên, tự lao động, sinh sống được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; còn đối với Trần Thị Mỹ Tr, sinh ngày 11/02/2005 và Trần Thị Bích Th, sinh ngày 11/8/2006 bà yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con cùng bà sau khi vợ chồng ly hôn;

3. Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng không tài sản chung, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết;

4. Về quan hệ nợ chung: Vợ chồng không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 13/12/2019 và biên bản hòa giải ngày 30/12/2019 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 30/12/2019, bị đơn ông Trần Văn C trình bày:

Về thời gian ông và bà Lê Thị U chung sống với nhau năm 1999 đến nay không đăng ký kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng, thời gian ly thân; vợ chồng có 03 con chung, họ tên, ngày tháng năm sinh của các con; về tài sản chung của vợ chồng; về nợ chung là đúng như ý kiến của bà U trình bày nêu trên ông không trình bày gì thêm.

Nay theo yêu cầu của bà U, ông có ý kiến như sau :

1. Về quan hệ hôn nhân: Đồng ý ly hôn với bà Lê Thị U;

2. Về quan hệ nuôi con chung: Hiện Trần Văn T, sinh năm 2000 đã thành niên, tự lao động, sinh sống được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; còn đối với Trần Thị Mỹ Tr, sinh ngày 11/02/2005 và Trần Thị Bích Th, sinh ngày 11/8/2006 đồng ý giao cho bà U trực tiếp nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng nuôi con cùng bà U sau khi vợ chồng ly hôn;

3. Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng không tài sản chung, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết;

4. Về quan hệ nợ chung: Vợ chồng không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn bà Lê Thị U và bị đơn ông Trần Văn C vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng nguyên đơn bà Lê Thị U và bị đơn ông Trần Văn C trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự;

+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xem xét những vấn đề cụ thể như sau, về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Lê Thị U và ông Trần Văn C; về quan hệ nuôi con chung: Giao Trần Thị Mỹ Tr, sinh ngày 11/02/2005 và Trần Thị Bích Th, sinh ngày 11/8/2006 là con chung của hai người cho bà U trực tiếp nuôi dưỡng, ông C không cấp dưỡng nuôi con cùng bà U, còn Trần Văn T, sinh năm 2000 đã thành niên, tự lao động sinh sống được và nguyên đơn, bị đơn không tranh chấp, yêu cầu gì nên không xem xét; về quan hệ tài sản chung và quan hệ nợ chung: Không có tranh chấp nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi hòa giải không thành, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho các đương sự trong vụ án. Tại phiên tòa, vắng mặt nguyên đơn, bị đơn nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị U và ông Trần Văn C chung sống với nhau từ năm 1999, nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền (UBND xã). Như vậy là vi phạm quy định về đăng ký kết hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Đến khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (có hiệu lực ngày 01-01-2001), các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có nhiều văn bản quy định, hướng dẫn việc đăng ký kết hôn đối với những trường hợp như ông, bà trong thời gian hai năm (từ ngày 01-01-2001 đến ngày 01-01-2003) nhưng ông, bà vẫn không thực hiện. Cho đến khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (có hiệu lực ngày 01-01-2015) và thực tế từ khi có đơn yêu cầu xin ly hôn của bà U và cho đến nay ông, bà vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do đó, nay bà U có yêu cầu ly hôn, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 14, Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Tòa án sẽ quyết định bằng bản án tuyên bố không công nhận hai người là vợ chồng.

- Về quan hệ nuôi con chung: Tại phiên hòa giải, giữa bà Lê Thị U và ông Trần Văn C đã cùng nhau thống nhất xác định và tự thỏa thuận, sau khi vợ chồng ly hôn giao con Trần Thị Mỹ Tr, sinh ngày 11/02/2005 và Trần Thị Bích Th, sinh ngày 11/8/2006 cho bà U trực tiếp nuôi dưỡng, ông C không cấp dưỡng nuôi con cùng bà U và cháu Trần Thị Mỹ Tr, Trần Thị Bích Th cũng đã có văn bản thể hiện ý kiến sau khi cha mẹ (bà U, ông C) ly hôn có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với bà U. Việc bà U không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con cùng bà sau khi vợ chồng ly hôn là tự nguyện, hơn nữa theo ý kiến của bà U nêu ra thì hiện nay bà có nghề nghiệp và có thu nhập ổn định nên có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con chung, do đó ông C không phải cấp dưỡng nuôi con cùng bà U; đối với Trần Văn T, sinh năm 2000 đã thành niên, tự lao động, sinh sống được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Thấy rằng, đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và phù hợp theo quy định tại Điều 15, khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên cần ghi nhận.

- Về quan hệ tài sản chung và quan hệ nợ chung: Giữa nguyên đơn bà Lê Thị U và bị đơn ông Trần Văn C cùng thống nhất xác định, vợ chồng không tài sản chung, không nợ chung tài sản gì đối với ai khác cũng không ai nợ vợ chồng, không tranh chấp, không yêu cầu Toà án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn bà Lê Thị U có đơn yêu cầu xin ly hôn nên bà U phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 53, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 

Tuyên xử:

1 - Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Lê Thị U và ông Trần Văn C.

2 - Về quan hệ nuôi con chung: Ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa bà Lê Thị U và ông Trần Văn C, cụ thể: Sau khi ly hôn, giao Trần Thị Mỹ Tr, sinh ngày 11/02/2005 và Trần Thị Bích Th, sinh ngày 11/8/2006 là con chung của hai người cho bà U trực tiếp nuôi dưỡng (đúng theo nguyện vọng của Trần Thị Mỹ Tr, Trần Thị Bích Th), ông C không cấp dưỡng nuôi con cùng với bà U sau khi vợ chồng ly hôn.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3 - Về quan hệ tài sản chung và về quan hệ nợ chung: Các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

4 - Về án phí: Bà Lê Thị U phải chịu án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0007489 ngày 01 tháng 10 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Minh; bà U đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 20/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về