Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 13/02/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

 BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/02/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2019/HNGĐ-ST, ngày 17 tháng 12 năm 2019 về việc: Xin ly hôn.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXX-ST ngày 03 tháng 02 năm 2020giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1982 Địa chỉ: xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Th. Vắng mặt

2. Bị đơn: Chị Quyền Thị T, sinh năm 1984 Địa chị: Khu 10, thị trấn Hàng Trạm, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa B (Hiện đang cư trú tại Rumania) Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Trung H trình bày: Anh và chị T kết hôn với nhau năm 2010 và đã được UBND xã Trung Nghĩa cấp giấy chứng nhận kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng anh chung sống hạnh phúc, nhưng sống với nhau càng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, dẫn đến việc chị T đi xuất khẩu lao động tại nước ngoài, vợ chồng ly thân từ đó. Từ khi ly thân vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau, nhận thấy tình cảm không còn, không thể tiếp tục cuộc sống chung, anh H đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình giải quyết cho anh được ly hôn với chị Quyền Thị T.

Về con chung: anh chị có một con chung là cháu Nguyễn Cẩm Linh, sinh ngày 23/6/2011, hai vợ chồng thống nhất giao cháu Linh cho chị T chăm sóc vào giáo dục, chưa đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có Bị đơn chị Quyền Thị T tại các văn bản gửi cho tòa án trình bày: Chị và anh H kết hôn với nhau năm 2010 và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau vợ chồng mâu thuẫn dẫn đến việc chị T đi xuất khẩu lao động và vợ chồng ly thân từ đó. Nay được biết anh H xin ly hôn chị, chị T đồng ý ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị T và anh H thống nhất thỏa thuận giao con chung là cháu Nguyễn Cẩm Linh cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, chưa đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

Hiện chị T đang ở Rumania, do điều kiện không có nên không thể về nước tham gia phiên tòa, chị T có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ý kiến của cháu Nguyễn Cẩm L: Cháu được biết bố mẹ cháu xin ly hôn nhay, cháu đồng ý, vì hiện tại cháu đang sống với mẹ, nếu bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng xin được ở với mẹ cháu là Quyền Thị T.

Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Hòa Bình xác nhận: Công dân Quyền Thị T được cấp hộ cH số N124194 và đã dùng hộ cH này để xuất cảnh, lần xuất cảnh gần đây nhất là ngày 07/8/2018 sân bay quốc tế Nội Bài, hiện nay chưa có thông tin nhập cảnh trở lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật tố tố tụng của HĐXX, Thẩm phán: Đã thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm. Đã gửi thông báo về việc thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự; xác định đúng tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng và tiến hành thu thập chứng cứ, mở phiên họp công khai các chứng cứ theo đúng quy định; tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu theo đúng thời gian quy định. Do bị đơn đang ở nước ngoài nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thư ký phiên tòa: Đã thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng: Đã thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của các đương sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Trung H, cho anh H được ly hôn chị T. Chấp nhận sự thỏa thuận giữa anh H và chị T về việc nuôi con chung; về tài sản chung và công nợ chung đương sự không đề nghị nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, HĐXX nhận định;

[1]Về tố tụng: Bị đơn chị Quyền Thị T hiện đang cư trú tại nước ngoài (Rumania) nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình.

Tại phiên tòa vắng mặt anh H và chị T nhưng đều đã có đơn xin xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung: anh Nguyễn Trung H và chị Quyền Thị T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn năm 2010 tại UBND xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ là hôn nhân hợp pháp theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình.

Sau khi đăng ký kết hôn cả hai xác nhận quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến nay mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được.

Về nguyên nhân ly hôn: anh H và chị T đều trình bày do bất đồng về quan điểm sống, tính khí không hòa hợp và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nên chị T đã đi xuất khẩu lao động, anh chị đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Anh H và chị T đều có nguyện vọng được ly hôn. Xét anh H và chị T thật sự tự nguyện ly hôn là có căn cứ phù hợp quy định tại Điều 55 luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận việc thuận tình ly hôn.

Về con chung: anh H và chị T chó một con chung là cháu Nguyễn Cẩm Linh, sinh ngày 23/6/2011, hiện cháu Linh đang sống với mẹ tại Rumania, nguyện vọng của cháu Linh nếu bố mẹ ly hôn cháu muốn sống với mẹ. Anh H và chị T tự nguyện thỏa thuận với nhau sau khi ly hôn chị T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Cẩm Linh, anh chị thống nhất chưa đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là thỏa thuận tự nguyện của các đương sự nên cần chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Nguyễn Trung H phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 207; khoản 1 Điều 228; Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51; 56; 81; 82; 83 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Trung H được ly hôn chị Quyền Thị T.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Giao cháu Nguyễn Cẩm Linh, sinh ngày 23/6/2011 cho chị Quyền Thị T nuôi dưỡng; chưa đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Anh H có quyền thăm nom con không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: anh Nguyễn Trung H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh H đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0006304 ngày 17/12/2019 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hòa Bình.

Anh Nguyễn Trung H và chị Quyền Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 13/02/2020 về ly hôn

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về