Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 92/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/7/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16/7/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1992.

Đa chỉ: Thôn 1 BT, xã HL, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L - Sinh năm 1987.

Đa chỉ: Thôn 3 BT, xã HL, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo nguyên đơn trình bày:

Đơn khởi kiện ngày 03/5/2019 cũng như các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

* Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu. Cưới có đăng ký kết hôn tại UBND xã HL, cấp ngày 13/11/2015. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong công việc, đời sống hằng ngày. Nhưng được thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên cãi vã. Anh L không quan tâm đến vợ con, bỏ bê công việc gia đình. Chị H có khuyên bảo nhưng anh L không nghe mà còn chửi bới, đánh đập và hành hạ chị. Vì không thể chịu đựng được nữa nên chị H đã bế con bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 04/2019. Từ đó cho đến nay vợ chồng sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau.

Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ được nữa, nên đề nghị Toà án nhân dân huyện Hậu Lộc xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

* Về con chung: Chị H xác định vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Nguyễn Tiến A, sinh ngày 15/7/2017. Hiện nay cháu đang ở với mẹ.

Ly hôn, tại phiên toà hôm nay chị H có nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Tiến A và yêu cầu anh L cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị mỗi tháng là 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

* Về tài sản và công nợ: Chị H xác định vợ chồng không có tài sản chung và cũng không có công nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Đối với bị đơn:

Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn L đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn nhưng anh L đều vắng mặt không có lí do.

Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc đã xuống tại gia đình và địa phương để tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và các văn bản tố tụng liên quan đến vụ án cho anh L nhưng tại thời điểm tống đạt anh L đều không có mặt tại gia đình, địa phương nên Toà án đã tiền hành tống đạt các văn bản tố tụng của vụ án cho bà Nguyễn Thị T là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn L nhận thay và cam kết sẽ giao lại và thông báo cho anh L được biết. Tại thời điểm chị Nguyễn Thị H làm đơn khởi kiện xin ly hôn thì anh Nguyễn Văn L đang có mặt tại địa phương và anh biết việc chị H làm đơn xin ly hôn, anh biết việc Toà án triệu tập lên làm việc nhưng cố tình trốn tránh, không đến Toà án để làm việc, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Ngày 01/7/2019, Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc đã đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa có mặt chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Văn L vắng mặt lần thứ nhất không có lí do nên Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa và thông báo đưa vụ án ra xét xử lần thứ hai vào ngày 06/8/2019, Quyết định hoãn phiên tòa đã được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Vic tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký phiên tòa và nguyên đơn, bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn đối với anh Nguyễn Văn L.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Tiến A, sinh ngày 15/7/2017cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng từ 1.000.000đ đến 1.500.000đ kể từ tháng 8/2019 cho đến khi cháu A tròn18 tuổi.

- Về tài sản và công nợ: không yêu cầu, nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn L là tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Bị đơn có địa chỉ tại thôn 3 BT, xã HL, huyện Hậu Lộc nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn L nhiều lần để tiến hành các thủ tục tố tụng với tư cách là bị đơn trong vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh L đều vắng mặt không có lí do. Tòa án đã tiến hành tống đạt giấy triệu tập, các văn bản tố tụng liên quan đến vụ án cho bà Nguyễn Thị T là mẹ đẻ của anh L, bà Tính nhận thay và hứa sẽ giao lại tận tay hoặc thông báo cho anh L được biết. Toà án đã xuống tại địa phương nơi cư trú của anh L để xác minh, qua kết quả xác minh tại địa phương và ủy ban nhân dân xã được biết, anh L sinh sống tại Thôn 3 BT, xã HL, huyện Hậu Lộc, nhưng hiện tại anh đang đi làm ăn xa ở tỉnh khác, thi thoảng có về nhà, liên lạc thường xuyên với gia đình. Anh L đã được biết việc chị H làm đơn khởi kiện tại Tòa án để xin ly hôn đối với anh, nhưng anh cố tình trốn tránh không đến làm việc nên vụ án không thể tiến hành hòa giải được.

Ti phiên tòa lần thứ nhất ngày 16/7/2019 có mặt chị Nguyễn Thị H nhưng anh Nguyễn Văn L vắng mặt không có lí do nên Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa và tiếp tục đưa ra xét xử lần thứ hai vào ngày 6/8/2019 anh L vẫn tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không có lí do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 BLTTDS, HĐXX quyết định tiến hành xét xử vụ án với sự vắng mặt của bị đơn anh Nguyễn Văn L.

[2]. Về nội dung tranh chấp:

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn L kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã HL, huyện Hậu Lộc. Như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, chị H trình bày thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong công việc, đời sống hằng ngày. Nhưng được thời gian sau thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên cãi vã. Anh L không quan tâm đến vợ con, bỏ bê công việc gia đình. Chị H có khuyên bảo nhưng anh L không nghe mà còn chửi bới, đánh đập và hành hạ chị. Vì không thể chịu đựng được nữa nên chị H đã bế con bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 04/2019. Từ đó cho đến nay vợ chồng sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau.

Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ được nữa, nên đề nghị Toà án nhân dân huyện Hậu Lộc xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

Hi đồng xét xử xét thấy nguyện vọng của chị H xin ly hôn với anh Nguyễn Văn L là phù hợp với thực tế, cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn trong suốt thời gian chung sống, không thể hàn gắn được. Thời gian vợ chồng sống ly thân nhau đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn L là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Nguyễn Tiến A, sinh ngày 15/7/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị H. Ly hôn chị H có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tiến A. Chị H yêu cầu anh L cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị mỗi tháng là 2.000.000đ Xét về thực tế thì cháu A đang còn quá nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ, mặt khác cháu A thuộc trường hợp con dưới 36 tháng tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình nên được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó HĐXX chấp nhận đề nghị của chị H giao cháu An cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng chị H yêu cầu buộc anh L có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 2.000.000đ. nhưng thực tế anh L lao động tự do, thu nhập không ổn định. Do vậy, buộc anh L phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng 1.500.000đ là phù hợp, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 08 năm 2019 cho đến khi cháu An đủ 18 tuổi.

Xét về phía bị đơn, anh Nguyễn Văn L trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh L đều vắng mặt, cũng không có ý kiến phản hồi về việc ly hôn cũng như trách nhiệm nuôi dưỡng con chung nên HĐXX không xem xét.

- Về tài sản, công nợ: Chị H xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên miễn xét.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 3 Điều 144; Khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Khon 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình.

Đim a khoản 1 Điều 24; Điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

* Xử: Vắng mặt anh Nguyễn Văn L.

Chp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Tiến A cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Thời hạn cấp dưỡng tính từ tháng 08/2019 cho đến khi cháu Nguyễn Tiến A đủ 18 tuổi.

Anh L có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

* Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2018/0005494 ngày 06 tháng 5 năm 2019. Chấp nhận chị H đã nộp đủ.

Anh Nguyễn Văn L phải nộp 300.000đ án phí đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

* Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, có mặt chị Nguyễn Thị H, vắng mặt anh Nguyễn Văn L. Chị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án. Anh L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

384
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hậu Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về