Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 03/01/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/01/2020 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 698/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019 về việc: “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2019/QĐXX-ST ngày 19 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Thủy N, sinh năm 1981. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Nơi cư trú: Số 182 N, Phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn M, sinh năm 1982. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Nơi cư trú: Ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/8/2019 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị Thủy N trình bày:

Chị và anh M quen biết nhau và cưới nhau vào năm 2002 hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 17/12/2002. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống hạnh phúc tại địa chỉ số 182 N, Phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và có với nhau được hai con chung nhưng sau đó vợ chồng chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân do anh chị bất đồng quan điểm sống, thường hay cãi vã đến năm 2017 anh M cờ bạc gây nợ nần nên anh M đã bỏ về quê ở huyện C, tỉnh Bến Tre để sinh sống. Từ khi anh M đi đến nay hai bên không còn liên lạc gì nhau cả. Chị và anh M đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh M nên chị có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh M.

Về con chung: Quá trình hôn nhân anh chị có hai con chung tên Phạm Hoàng P, sinh ngày 28/12/2003 và Phạm Hoàng L, sinh ngày 28/02/2011. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 19/12/2019 Tòa án có nhận được đơn của chị N về việc yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt chị vì chị bận công việc.

Tại bản tự khai ngày 17/12/2019, biên bản làm việc ngày 17/12/2019 bị đơn anh Phạm Văn M trình bày:

Anh cũng thừa nhận về thời gian cũng như điều kiện kết hôn như chị N trình bày là hoàn toàn đúng. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng anh làm ăn và sinh sống hạnh phúc tại số 182 N, Phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tuy nhiên, khoảng 02 năm gần đây thì vợ chồng anh phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, cuộc sống vợ chồng thường hay cự cãi, bất đồng quan điểm sống không có tiếng nói chung mặc dù hai bên đã nhiều lần hàn gắn nhưng không được. Do đó, anh đã bỏ về huyện C, tỉnh Bến Tre sinh sống từ năm 2017 và ly thân với chị N cho đến nay. Nay chị N yêu cầu ly hôn với anh, anh cũng đồng ý ly hôn nhưng do anh bận công việc làm ăn nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt anh.

Về con chung: Anh cũng thống nhất quá trình hôn nhân anh chị có hai con chung tên Phạm Hoàng P, sinh ngày 28/12/2003 và Phạm Hoàng L, sinh ngày 28/02/2011. Sau khi ly hôn anh đồng ý giao con cho chị N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng và anh không cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

Chị N và anh M đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Đng thời, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào Điều 51, 56, 81 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Thủy N đối với anh Phạm Văn M, cho chị N và anh M được ly hôn. Về con chung: Giao hai con chung tên Phạm Hoàng P, sinh ngày 28/12/2003 và Phạm Hoàng L, sinh ngày 28/02/2011 cho chị N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận chị Nkhông yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Căn cứ vào đơn khởi kiện ngày 05/8/2019 của chị Hoàng Thị Thủy N có yêu cầu xin ly hôn đối với anh Phạm Văn M cư trú tại số 82 N, Phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Xét thấy, đây là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã thụ lý giải quyết.

[2] Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã triệu tập anh M nhiều lần nhưng anh M vẫn vắng mặt. Căn cứ theo kết quả trả lời xác minh ngày 30/9/2019 của Công an Phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì anh M đã chuyển về sinh sống tại ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre từ tháng 3/2019 cho đến nay. Ngày 11/10/2019 Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có Quyết định số 01/2019/QĐST-HNGĐ về việc chuyển hồ sơ vụ án hôn nhân gia đình đến Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án chị N và anh M có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Ngân và anh M theo thủ tục chung.

Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Chị N và anh M quen biết và cưới nhau trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 17/12/2002 nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị N và anh M làm ăn và chung sống hạnh phúc tại địa chỉ số 82 N, Phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhưng sau đó do anh M cờ bạc gây nợ nần nên vợ chồng anh chị đã phát sinh mâu thuẫn và anh M đã bỏ về sinh sống tại ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre từ tháng 3/2019 cho đến nay. Vì vậy, chị N đã nộp đơn yêu cầu xin ly hôn với anh M.

Hi đồng xét xử thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án cả chị N và anh M đều thừa nhận cuộc sống hôn nhân của anh chị thực tế là có mâu thuẫn nguyên nhân do hai bên tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cãi và hai bên cũng đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy, trong khoảng thời gian chị N và anh M ly thân cũng là khoảng thời gian để anh chị hàn gắn tình cảm vợ chồng, tuy nhiên, anh chị vẫn không hàn gắn được mà mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng và thậm chí anh M đã bỏ về huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre để sinh sống từ khoảng 03 năm nay và hiện tại hai bên không còn quan tâm gì nhau. Tại biên bản làm việc ngày 17/12/2019 anh M cũng xác định hôn nhân giữa anh chị đã mâu thuẫn và hai bên không thể hàn gắn lại được nên đối với yêu cầu ly hôn của chị N, anh M cũng đồng ý ly hôn nhưng do anh bận đi làm nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt anh.

Mặt khác, tại biên bản làm việc ngày 17/12/2019 và biên bản xác minh trình trạng hôn nhân ngày 19/12/2019 cũng xác định hôn nhân giữa chị N và anh M là có mâu thuẫn nguyên nhân là do anh M cờ bạc gây nợ nần và anh M đã bỏ về huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre để sinh sống và hiện tại hai bên đã sống ly thân và không còn quan tâm gì nhau.

Từ những căn cứ trên Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị N và anh M đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị N là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung: Quá trình hôn nhân chị N và anh M đều thống nhất có hai con chung tên Phạm Hoàng P, sinh ngày 28/12/2003 và Phạm Hoàng L, sinh ngày 28/02/2011. Sau khi ly hôn chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung và không yêu cầu anh M cấp dưỡng. Tại bản tự khai cũng như biên bản làm việc anh M cũng đồng ý giao con chung cho chị N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, anh M không cấp dưỡng. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay con chung là do chị N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng và điều kiện phát triển và học tập của hai con chung là hoàn toàn tốt. Mặt khác, anh M không tranh chấp gì về con chung và đồng ý giao con chung cho chị N nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử xét thấy giao con chung cho chị N nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với nguyện vọng của cháu P và cháu L. Tuy nhiên, chị N không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của chị N nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của chị N được chấp nhận nên chị N phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội,

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 144, 147, 228, 262, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

[1] Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Thủy N với ông Phạm Văn M. Cho chị Hoàng Thị Thủy N được ly hôn với anh Phạm Văn M.

[2] Về con chung: Giao hai con chung tên Phạm Hoàng P, sinh ngày 28/12/2003 và Phạm Hoàng L, sinh ngày 28/02/2011 cho chị N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Anh Phạm Văn M được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Hoàng Thị Thủy N phải chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001130 ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị N đã nộp đủ án phí.

Chị Hoàng Thị Thủy N và anh Phạm Văn M vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 03/01/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về