Bản án 01/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 11/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11/01/2019, tại Tòa án huyện G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/018/TLST-HS ngày 04/12/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2018/QĐXXST-HS ngày 11/12/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1964; nơi cư trú: Thôn N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; học phổ thông: 05/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị N, đều đã chết; gia đình có 04 anh em, bị cáo thứ 4; vợ Nguyễn Thị M, sinh năm 1966; có 02 con sinh năm 1987 và 1993; không tiền án; có 01 tiền sự: Ngày 06/02/2018, Công an huyện G xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/10/2018 đến ngày 10/10/2018, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 ngày 04/10/2018, bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1345 gam Heroine, mục đích để sử dụng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai: Bị cáo nghiện ma túy, nên vào ngày giờ nêu trên bị cáo mượn xem máy của ông Đinh Mạnh T, sinh năm 1956; trú tại: Thôn Đại Lộc, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, (bị cáo nói là đi có việc, không nói là đi mua ma túy). Sau khi mượn xe bị cáo đi đến thôn C, xã S mua ma túy của người không quen biết với giá 200.000đ (đựng trong ống nhựa), trên đường mang ma túy về để sử dụng thì bị bắt giữ.

Kết luận giám định số: 1034/KLGĐMT-PC09 ngày 04/10/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chất bột trong 02 ống nhựa có khối lượng 0,1345gam là ma túy, chất Heroine.

Cáo trạng số: 57/CTr-VKS, ngày 30/11/2018 của Viện kiểm sát huyện G truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

 Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, buộc tội bị cáo về tội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt bị cáo từ 13 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ ngày tạm giữ và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo nhận tội, thừa nhận hành vi như Cáo trạng và Bản luận tội của Viện kiểm sát; không tham gia tranh luận với Viện kiểm sát mà xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp biên bản phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luận giám định và vật chứng thu được có đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ 30 ngày 04/10/2018, bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1345 gam Heroine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn cho xã hội; ma túy cũng là nguyên nhân phát sinh các tội phạm hình sự khác. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã phạm tội. Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tiền án, đây là những tình tiết để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có tài sản riêng, không nghề nghiệp nếu có áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cũng không có tính khả thi, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2] Số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo mua ma túy của người không quen biết, nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này, khi nào điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với chiếc xe máy bị cáo mượn của anh T, khi anh T cho bị cáo mượn xe không biết bị cáo dùng để đi mua ma túy; Công an huyện G đã trả cho anh T chiếc xe máy trên là đúng quy định của pháp luật. Anh T không yêu cầu đề nghị gì nên không đưa anh T vào tham gia tố tụng và triệu tập đến phiên tòa.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát buộc tội bị cáo về tội đã truy tố, đề nghị mức hình phạt và xử lý vật chứng là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo:

Nguyễn Văn T 13 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi ngày tạm giữ từ ngày 04/10/2018 đến ngày 10/10/2018.

Tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại sau giám định (Phong bì thư niêm phong, có chữ ký của Giám định viên và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh).

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về