Bản án 01/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 08/01/2019 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 08 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2018/TLST-HS ngày 26/11/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2018/QĐXXST-HS ngày 14/12/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2018/HSST-QĐ ngày 28/12/2018 đối với bị cáo: Phạm Văn L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 19xx; Nơi sinh: Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm M, Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe ôm; Trình độ học vấn: 7/10; Con ông Phạm Bội H và bà Lê Thị M (Đều đã chết); Có vợ là: Nguyễn Thị K; Sinh năm 19xx và 04 con (con lớn nhất sinh năm 19xx, con nhỏ nhất sinh năm 19xx); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Trần Văn Đ; Sinh năm: 19xx; Đã chết; Nơi cư trú trước khi chết: Xóm M, Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Lê Thị T; Sinh năm: 19xx; Là vợ của bị hại; Địa chỉ: Xóm M, Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

Đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Lê Duy Đ, sinh năm: 19xx; Địa chỉ: Xóm M, Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Thành P; Sinh năm: 19xx; Địa chỉ: Thôn C, xã D, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định; Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Minh H: Sinh năm: 19xx; Địa chỉ: Thôn A2, Thị trấn Phù Mỹ, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Lái xe; Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Bùi Tấn L; Sinh năm: 19xx; Địa chỉ: Thôn A1, thị trấn Phù Mỹ, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Lái xe; Vắng mặt.

+ Ông Tô Hải L: Sinh năm: 19xx; Đơn vị công tác: Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phạm Văn L và bị hại Trần Văn Đ sống cùng xóm, có mối quan hệ quen biết, gắn bó trong nhiều năm. Bị hại thường nhờ bị cáo chở về quê (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) để lĩnh chế độ thương binh. Vào ngày 21/8/2018, bị cáo sử dụng xe mô tô Biển kiểm soát 37B2-812.49, nhãn hiệu Honda Wave chở bị hại từ nhà (Xóm M, Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) về Thạch Hà, Hà Tĩnh theo đề nghị của bị hại. Khoảng 08 giờ 30 phút, khi đến km 488+650 Quốc lộ 1A thuộc địa phận xã V, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh thì xảy ra va chạm với xe ô tô đầu kéo BKS 77C-131.87 kéo theo sơmi rơ mooc BKS 77R-019.70 do anh Nguyễn Minh H điều khiển. Anh Nguyễn Minh H chở hàng cho chủ xe là anh họ Nguyễn Thành P từ Bắc Ninh đi Đà Nẵng. Khi đến đến địa phận xã V, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh thì gặp tổ tuần tra kiểm soát cơ động thuộc Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Hà Tĩnh (do anh Tô Hải L làm tổ trưởng). Anh H cho dừng xe để kiểm tra theo yêu cầu của tổ công tác (xe dừng ở sát lề đường bên phải theo chiều đi, ngay phía sau đuôi xe ô tô đầu kéo khác cũng đang dừng để kiểm tra, hai xe cách nhau khoảng 3m). Do chiều rộng xe lớn nên lúc này cả hai xe ô tô đầu kéo đều nằm hết làn đường dành cho xe thô sơ và một phần làn đường dành cho xe cơ giới sát với làn đường dành cho xe thô sơ của phần đường bên phải. Sau khi kiểm tra, tổ tuần tra cho phép tiếp tục lưu thông nên tài xế lên xe đi. Anh Hùng bật xi nhan trái, điều khiển xe ô tô đầu kéo chuyển làn từ phải sang trái với tốc độ khoảng 03 - 05 km/h. Lúc này, bị cáo Phạm Văn L chở ông Trần Văn Đ đi phía sau cùng chiều với xe ô tô đầu kéo. Xe mô tô đi trên làn đường dành cho xe cơ giới sát với làn đường dành cho xe thô sơ. Khi nhìn thấy xe ô tô đầu kéo do Nguyễn Minh H điều khiển phía trước đang chuyển làn từ phải sang trái với tốc độ chậm, nghĩ rằng có thể vượt trước xe ô tô đầu kéo nên bị cáo L đánh tay lái từ phải sang trái cho xe mô tô BKS 37B2-812.49 di chuyển sang làn đường dành cho xe cơ giới sát với dải phân cách cứng và tăng tốc độ để vượt trước đầu xe ô tô đầu kéo. Tuy nhiên, khi xe mô tô đi đến phần đầu xe ô tô đầu kéo thì tay lái bên phải xe mô tô và cánh tay phải của bị cáo va chạm với mặt ngoài bánh xe ô tô phía trước bên trái khiến xe mô tô do bị cáo điều khiển bị ngã, bị hại ngồi phía sau văng ra đập vào giải phân cách cứng. Hậu quả của vụ tai nạn là bị hại Trần Văn Đ bị tử vong, bị cáo Phạm Văn L bị thương nhẹ, hai phương tiện hư hỏng nhẹ.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 10 ngày 22/8/2018 kết luận: Nạn nhân Trần Văn Đ chết do chấn thương sọ não và gãy xương cột sống cổ.

Về trách nhiệm dân sự: Các bên liên quan đã thỏa thuận, thống nhất giải quyết xong vấn đề dân sự trong giai đoạn điều tra, cụ thể:

- Ông Nguyễn Thành P ủy quyền cho anh Nguyễn Minh H toàn quyền giải quyết, quyết định mọi vấn đề liên quan. Anh Nguyễn Minh H đã hỗ trợ cho gia đình ông Trần Văn Đ 105.000.000 đồng, hỗ trợ cho ông Phạm Văn L 800.000 đồng. Anh H có đơn từ chối định giá thiệt hại đối với xe ô tô đầu kéo.

- Bị cáo Phạm Văn L bồi thường cho gia đình nạn nhân Trần Văn Đ 35.000.000 đồng. Bị cáo từ chối giám định tỷ lệ thương tích và định giá thiệt hại đối với xe mô tô.

Về vật chứng: Sau khi tiến hành khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc đã trả lại cho anh Nguyễn Minh H xe ô tô đầu kéo BKS 77C-131.87 kéo theo sơmi rơmooc BKS 77R-019.70 cùng các giấy tờ kèm theo và giấy phép lái xe; trả cho bị cáo Phạm Văn L xe mô tô BKS 37B2-812.49 kèm theo giấy đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Văn L.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc đã truy tố bị cáo Phạm Văn L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015 tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKSCL-HS ngày 23/11/2018. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: “Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Phạm Văn L từ 15-18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30-36 tháng về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” . Về hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp: Không. Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.”

Tại phiên tòa, bị cáo trình bày các lời khai trong giai đoạn điều tra và truy tố là khách quan, trung thực, không bị ép cung, nhục hình. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo thừa nhận do chủ quan, không chú ý quan sát nên đã điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 37B2-812.49 vượt xe đầu kéo 77C-131.87 không an toàn làm xe mô tô bị ngã, ông Đông ngồi phía sau bị chấn thương nặng dẫn đến tử vong. Bị cáo khẳng định bánh trước bên trái của xe đầu kéo mới chỉ chớm chuyển làn nên bị cáo tự tin vượt xe nhưng do ước tính sai khoảng cách nên không điều khiển xe máy sát vào phía trong giải phân cách. Nếu bị cáo dừng xe lại chờ cho xe đầu kéo chuyển làn xong mới tiếp tục di chuyển hoặc đánh lái vào sát trong giải phân cách thì sẽ không xảy ra va chạm.

Tại các lời khai có trong hồ sơ, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Minh H khai nhận sau khi được tổ công tác cho tiếp tục lưu thông thì bật xi nhan trái, điều khiển xe đầu kéo 77C-131.87 từ từ chuyển làn sang trái với tốc độ chậm. Khi phát hiện ra có va chạm thì anh H đã dừng xe và cùng với mọi người đưa nạn nhân đi cấp cứu. Sau khi sự việc xảy ra thì anh H đã thông báo với chủ xe (ông Nguyễn Thành P) và được ủy quyền thay mặt chủ xe giải quyết, quyết định mọi vấn đề liên quan. Anh H đã tự nguyện hỗ trợ cho gia đình ông Trần Văn Đ 105.000.000 đồng, hỗ trợ cho bị cáo 800.000 đồng và không yêu cầu giám định hư hỏng của xe đầu kéo.

Người làm chứng Bùi Tấn L xác nhận: Thời điểm xảy ra va chạm thì anh Nguyễn Minh H trực tiếp điều khiển xe 77C1.318.710.

Các lời khai của người làm chứng Tô Hải L cũng xác nhận, sau khi thực hiện các nội dung cần kiểm soát đối với xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 77C- 131.87 kéo theo sơmi rơ mooc biển kiểm soát 77R-019.70 thì tổ công tác cho phương tiện tiếp tục di chuyển. Lái xe ô tô đầu kéo có bật đèn xi nhan bên trái và điều khiển xe ô tô đầu kéo chuyển làn từ lề đường bên phải vào làn đường bên trái (làn xe cơ giới) một cách từ từ thì bất ngờ xảy ra va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 37B2-812.49. Xe mô tô đã không giảm tốc độ khi tham gia giao thông, vượt xe ô tô đầu kéo không đảm bảo an toàn dẫn tới va chạm.

Các lời khai của bị cáo, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan phù hợp với sơ đồ, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm các phương tiện liên quan, kết quả khám nghiệm tử thi, các bản ảnh hiện trường cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại đơn xin vắng mặt và giấy ủy quyền ngày 13/12/2018, vợ nạn nhân (bà Lê Thị T) cho biết: Về dân sự: Đã thực hiện xong, không yêu gì thêm; Về xử lý hình sự: Đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ, cho bị cáo được hưởng án treo. Về việc tham gia tố tụng tại tòa án: Ủy quyền cho ông Lê Duy Đ tham gia giải quyết các vấn đề liên quan kể từ ngày ký giấy ủy quyền đến khi kết thúc vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, tuân thủ đúng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quy định tại Điều 37, Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

[2] Bị cáo Phạm Văn L được Sở giao thông vận tải tỉnh Nghệ An cấp giấy phép lái xe hạng A1 có giá trị không thời hạn, phù hợp với loại xe bị cáo sử dụng để chở ông Trần Văn Đ vào ngày 21/8/2018. Tuy nhiên, do chủ quan nên bị cáo điều khiển xe mô tô vượt xe đầu kéo đang chuyển làn phía trước không đảm bảo an toàn dẫn đến va chạm, gây hậu quả nghiêm trọng (làm ông Trần Văn Đ chết). Bị cáo tuổi đã cao, phản xạ không còn nhanh nhẹn, chở phía sau một người có trọng lượng nặng hơn mình, đáng lẽ khi phát hiện xe đầu kéo phía trước đang chuyển làn sang trái thì giảm tốc độ (có thể dừng lại), không được vượt mới đảm bảo an toàn. Hành vi của bị cáo đã phạm vào khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ năm 2008: “Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải”. Do không tuân thủ theo quy định này nên tai nạn xảy ra và làm ông Trần Văn Đ chết. Do vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015. Đối với hành vi điều khiển xe ô tô đầu kéo chuyển làn của anh Nguyễn Minh H, Hội đồng xét xử nhận định: Xe đầu kéo được tài xế điều khiển chuyển làn tại nơi cho phép, trước khi chuyển làn có tín hiệu bằng đèn xi nhan. Do đó, không truy cứu trách nhiệm hình sự, không xử phạt hành chính đối với lái xe đầu kéo Nguyễn Minh H là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có đủ năng lực hành vi hình sự, đã được cấp giấy phép lái xe theo quy định thì khi tham gia giao thông đường bộ cần phải chú ý quan sát và tuân thủ đúng quy định. Lẽ ra khi phát hiện chướng ngại vật phía trước thì bị cáo phải giảm tốc độ đến mức an toàn (có thể dừng lại) nhưng do chủ quan nên bị cáo vẫn điều khiển xe vượt không an toàn dẫn đến tai nạn. Bị cáo không tuân thủ các quy tắc về giao thông đường bộ là nguy hiểm cho chính bản thân và xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự an toàn giao thông đường bộ tại địa bàn huyện Can Lộc. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp vô ý phạm tội.

Xét các yếu tố khác: Bản thân bị cáo cũng bị thương do vụ tai nạn nhưng đã tích cực vay mượn tiền để bồi thường thiệt hại, chia sẻ mất mát với gia đình bị hại. Bị cáo và bị hại cũng có mối quan hệ quen biết, gắn bó trong nhiều năm. Cái chết của bị hại cũng gây ra cho bị cáo nhiều nỗi ám ảnh, day dứt. Bị cáo trình bày, sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã tự hạn chế việc điều khiển xe máy lưu thông trên đường bộ, mỗi khi cần phải đi xa thì sử dụng các phương tiện công cộng hoặc nhờ người khác chở đi.

Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Ngoài ra, bị cáo còn được người đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt, cho hưởng án treo nên có thể chấp nhận đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Do đó, Hội đồng xét xử nhận định không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng cải tạo đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Đã thực hiện xong dựa trên sự tự nguyện của các bên nên Hội đồng xét xử miễn xét

[4] Về xử lý các vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc trả cho anh Nguyễn Minh H xe ô tô đầu kéo BKS 77C-131.87 kéo theo sơmi rơmooc BKS 77R-019.70 cùng các giấy tờ kèm theo và giấy phép lái xe; trả cho bị cáo Phạm Văn L xe mô tô BKS 37B2-812.49 kèm theo giấy đăng ký xe mô tô là đúng với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn L: 14 (Mười bốn) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách: 28 (Hai mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án án sơ thẩm (ngày 08/01/2019).

Giao bị cáo Phạm Văn L cho Uỷ ban nhân dân Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An quản lý giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục Phạm Văn L. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Miễn xét.

Về án phí: Bị cáo Phạm Văn L phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo Phạm Văn L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Thành P, anh Nguyễn Minh H, ông Lê Duy Đ, bà Lê Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về