Bản án 01/2019/HNGĐ-ST ngày 21/01/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 01/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 21/01/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh TháiBình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:187/2018/TLST-HNGĐ ngày21/12/2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐST- HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nghiêm Thị H, sinh năm 1994

Nơi ĐKHKTT: Thôn 5, xã Th, huyện X, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã H, huyện X, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Đinh Văn Ph, sinh năm 1989

Nơi cư trú: Thôn 5, xã Th, huyện X, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Nghiêm Thị H trình bày: Chị và anh Đinh Văn Ph tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th, huyện X vào ngày 27/4/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 01/2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Ph có quan hệ với người phụ nữ khác, từ đó cuộc sống vợ chồng luôn bất hòa, căng thẳng; chị về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 10/2018 đến nay. Xác định không còn tình cảm với anh Ph, vợ chồng không trở về đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh Ph có một con chung tên Đinh Tùng L, sinh ngày23/12/2015, từ khi sống ly thân, anh chị thay nhau trực tiếp chăm sóc cháu L. Ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung không yêu cầu anh Ph góp tiền cấp dưỡng nuôi con, vì cháu L còn quá nhỏ cần sự chăm sóc của chị, anh Ph làm công nhân bán xăng dầu thời gian làm việc liên tục 2 ngày 2 đêm mới được nghỉ một ngày một đêm. Chị bán hàng cho Công ty TNHH xuất nhập khẩu M, địa chỉ: Số 355, đường L, TP P, tỉnh Thái Bình với mức thu nhập 6.500.000 đồng/tháng, thời gian làm việc 8 tiếng/ ngày.

Về tài sản chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị và anh Ph khôngvay nợ chung.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Đinh Văn Ph trình bày: sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh Ph đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh không đồng ý với việc chH liên lạc với người yêu cũ, tháng 10 năm 2018 giữa bố mẹ anh và chH xảy ra bất hòa, chị tự ý về nhà bố mẹ đẻ ở, anh tìm gọi nhưng chH cương quyết không về. Anh không còn tình cảm với chH, vợ chồng không trở về đoàn tụ với nhau được, nhưng anh chỉ đồng ý ly hôn khi chH nhường quyền nuôi con cho anh.

Về con chung: Anh và chH có một con chung như chH khai, nếu Tòa án giải quyết cho chH được ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chH góp tiền cấp dưỡng nuôi con vì anh có thu nhập ổn định, cao hơn chH. Hiện anh bán xăng dầu tại cửa hàng xăng dầu số 21, xã Th, huyện X thuộc công ty TNHH một thành viên xăng dầu Thái Bình với mức thu nhập 7.500.000 đồng/ tháng. Thời gian làm việc từ 05 h đến 22 giờ cùng ngày.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết, về nợ chung không có

Kết quả xác minh tại UBND xã Th, huyện X thể hiện: Anh Ph và chH sau khi kết hôn chung sống cùng với bố mẹ đẻ anh Ph tại xã Vũ Thắng, huyện Kiến Xương. Đến đầu năm 2018 anh chị phát sinh mâu thuẫn do nghi ngờ lẫn nhau có quan hệ ngoại tình. ChH về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 10/2018, anh chị thay nhau chăm sóc con chung. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70,71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị xử cho chH được ly hôn anh Ph, về con chung giao con chung cho chH trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chH về việc không yêu cầu anh Ph góp tiền cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Nghiêm Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Đinh Văn Ph có nơi cư trú xã Th, huyện X nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân huyện Kiến Xương tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Ch H và anh Ph tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th, huyện X là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không tin tưởng nhau nên thường xuyên xảy ra va chạm. Ch H xin ly hôn, anh Ph xác định không còn tình cảm, vợ chồng không trở về đoàn tụ với nhau được chứng tỏ mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chH, quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, xử cho chị được ly hôn anh Ph là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Anh Ph và chH đều đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đinh Tùng L, sinh ngày 25/12/2015. Hội đồng xét xử thấy anh, chị đều là người có trách nhiệm với con, nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là chính đáng. Tuy nhiên do cháu L còn nhỏ mới đủ 36 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc sát sao từ người mẹ, trong khi thời gian làm việc của anh Ph từ 05 giờ đến 22 giờ hàng ngày nên không có điều kiện để chăm sóc con bằng chH. Vì vậy để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho cháu L, cần chấp nhận yêu cầu của chH giao con chung cho chH được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; ghi nhận sự tự nguyện của chH về việc không yêu cầu anh Ph góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

 [5] Về tài sản chung: các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung không có.

 [6] Về án phí: Chị Nghiêm Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩmtheo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nghiêm Thị H được ly hôn anh Đinh Văn Ph.

2. Về con chung: Giao con chung Đinh Tùng L, sinh ngày 25/12/2015 cho chị Nghiêm Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chH về việc không yêu cầu anh Ph góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Anh Ph có quyền thăm nom con chung.

3. Về tài sản chung: các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nghiêm Thị H phải chịu 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) chH đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001204 ngày 21/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương thành án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 21/01/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HNGĐ-ST ngày 21/01/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:01/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về