Bản án 01/2019/DS-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK HÀ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 01/2019/DS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số mới 02/2019/TLST-DS ngày 02 tháng 01 năm 2019 (Thụ lý cũ số 49/2018/TLST-DS ngày 08 tháng 10 năm 2018) về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 01/2019/QĐXXST-DS ngày 18/4/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST-DS ngày 26/4/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)

Địa chỉ: Số 02 Láng Hạ, phường Thành C, quận Ba Đ, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Ngọc K, Chức vụ: Chủ tịch hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn C, Chức vụ: Phó Giám đốc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Đăk Hà

Địa chỉ : Số 155 Hùng V, tổ dân phố 1, thị trấn Đăk H, huyện Đăk H, tỉnh Kon Tum. (Có mặt).

Đồng bị đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1977 và bà Phạm Thị S, sinh năm 1976

Cùng trú tại: Thôn 1, xã Ngọc W, huyện Đăk H, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt lần hai được Tòa án tống đạt hợp lệ).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1./ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1998

2./ Cháu Nguyễn Quốc H, sinh năm 2006

Cùng trú tại: Thôn 1, xã Ngọc W, huyện Đăk H, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt lần hai được Tòa án tống đạt hợp lệ).

Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Quốc H : Ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S (là bố mẹ của cháu Nguyễn Quốc Huy). (Vắng mặt lần hai được Tòa án tống đạt hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/9/2018 và bản tự khai, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trình bày:

Ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S có vay vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt là Agribank) chi nhánh huyện Đăk Hà với tổng số tiền vay là 2.500.000.000 đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng) theo các hợp đồng vay cụ thể như sau:

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701487 đề ngày 24/3/2017. Dư nợ 400.000.000 đ (bốn trăm triệu đồng). Mục đích vay: Chăm sóc cây cà phê; lãi suất cho vay 7%/năm. Hợp đồng tín dụng đã quá hạn trả nợ kể từ ngày 24/3/2018.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701488 đề ngày 24/3/2017. Dư nợ 400.000.000 đ (bốn trăm triệu đồng). Mục đích vay: Nuôi cá; lãi suất cho vay 7%/năm. Hợp đồng tín dụng đã quá hạn trả nợ kể từ ngày 24/3/2018.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701489 đề ngày 24/3/2017. Dư nợ 600.000.000 đ (sáu trăm triệu đồng). Mục đích vay: xây dựng các công trình phụ trợ; lãi suất cho vay 10,5%/năm. Hợp đồng tín dụng đã quá hạn trả nợ kể từ ngày 24/3/2018.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701490 đề ngày 24/3/2017. Dư nợ 800.000.000 đ (tám trăm triệu đồng). Mục đích vay: Chăn nuôi bò; lãi suất cho vay 9,5%/năm. Hợp đồng tín dụng đã quá hạn trả nợ kể từ ngày 24/3/2018.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201702400 đề ngày 01/6/2017. Dư nợ 300.000.000 đ (ba trăm triệu đồng). Mục đích vay: chăn nuôi bò; lãi suất cho vay 9,5%/năm. Hợp đồng tín dụng đã quá hạn trả nợ kể từ ngày 01/6/2018.

Để đảm bảo cho khoản vay này ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S đã thế chấp tài sản được thể hiện trong các hợp đồng thế chấp là:

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700444 ngày 24/3/2017; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700440 ngày 24/3/2017; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700754 ngày 31/5/2017 đã được ký kết giữa ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và ngân hàng Agribank chi nhánh huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum.

Tuy nhiên, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã làm việc nhiều lần yêu cầu ông Nguyễn Văn N phải trả nợ cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) số tiền nợ nhưng ông N, bà Sim vẫn chây ỳ không chịu trả nợ, hiện tại ông Nguyễn Văn Nhàn và bà Phạm Thị S đã bỏ đi khỏi địa phương.

Nhận thấy, ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S đã vi phạm thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank). Vì vậy, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã khởi kiện ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S để thu hồi nợ.

Để đảm bảo quyền lợi của bên cho vay là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), kính đề nghị Toà án buộc bên vay vốn là ông Nguyễn Văn Nhàn và bà Phạm Thị Sim. Phải thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) với tổng số tiền là 2.934.170.139 đồng (hai tỷ, chín trăm ba mươi bốn triệu, một trăm bay mươi ngàn, một trăm ba mươi chín đồng). Trong đó: tiền gốc là 2.500.000.000 đ; tiền lãi là 434.170.139 đồng. (tính đến ngày 24/5/2019). Và phải thanh toán phần lãi suất phát sinh đối với số nợ còn lại theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng mà ông Nguyễn Văn N đã ký kết với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).

Trường hợp ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, thì ngân hàng có quyền yêu cầu phát mãi tài sản đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700444 ngày 24/3/2017; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700440 ngày 24/3/2017 hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700754 ngày 31/5/2017 đã được ký kết giữa ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và Ngân hàng Agribank để thanh toán nợ.

Tại phiên tòa hôm nay, người đại điện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xuất trình bảng kê tính lãi phát sinh đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 24/5/2019 yêu cầu ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền nợ là 2.934.170.139 đồng (hai tỷ, chín trăm ba mươi bốn triệu, một trăm bảy mươi ngàn, một trăm ba mươi chín đồng). Trong đó: tiền gốc là 2.500.000.000 đ; tiền lãi là 434.170.139 đồng (lãi trong hạn là 195.184.027 đ; lãi quá hạn là 238.986.112 đ). Nếu ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S không thanh toán được khoản nợ trên thì yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ và phải chịu toàn bộ các chi phí có liên quan đến việc xử lý nợ.

Về phía bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành xác minh nơi cư trú của ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S; anh Nguyễn Văn T; cháu Nguyễn Quốc H. Tuy nhiên, hiện ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S đã bỏ đi khỏi địa phương nhưng không thông báo cho chính quyền địa phương biết là đi đâu. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập cho bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T; cháu Nguyễn Quốc H biết. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật. Nhưng bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt không có lý do, nên đã gây khó khăn, kéo dài việc giải quyết vụ án. Toà án đã làm các thủ tục niêm yết tống đạt hợp lệ để xét xử vắng mặt đối với bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T; cháu Nguyễn Quốc H.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T; cháu Nguyễn Quốc H vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum cho rằng:

*Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án. Thấy rằng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

*Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia phiên tòa: Đối với đương sự có mặt tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70; 71;72; 72; 234 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T; cháu Nguyễn Quốc H mặc dù tòa án đã tống đạt hợp lệ lần hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do thể hiện việc đương sự chấp hành chưa nghiêm pháp luật. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

* Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đề ngày 20/9/2018. Buộc ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S phải liên đới trả nợ cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tổng số tiền 2.934.170.139 đồng (hai tỷ, chín trăm ba mươi bốn triệu, một trăm bảy mươi ngàn, một trăm ba mươi chín đồng). Trong đó: tiền gốc là 2.500.000.000 đ; tiền lãi là 434.170.139 đồng (lãi trong hạn là 195.184.027 đ; lãi quá hạn là 238.986.112 đ) tính đến hết ngày 24/5/2019. Theo các Hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) và ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị S. Nếu bị đơn không trả được số tiền nêu trên thì Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Ngoài ra, ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa hai bên cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) và bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S là giao dịch dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà được quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án bị đơn vắng mặt, Tòa án đã thực hiện tất cả các phương thức tống đạt quy định tại Điều 173 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để thông báo thụ lý, triệu tập đương sự và các văn bản tố tụng khác cho bị đơn theo địa chỉ ghi trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp. Do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa ngày 26/4/2019, Tòa án đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Quyết định hoãn phiên tòa, thông báo thời gian mở lại phiên tòa đã được Tòa án tống đạt hợp lệ cho đương sự nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án: Qua lời khai của người đại điện theo ủy quyền của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp xác định:

Về hình thức của giao dịch dân sự. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) và bị đơn ông Nguyễn Văn Nhàn, bà Phạm Thị Sim đã ký kết với nhau 05 hợp đồng tín dụng, cụ thể;

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701487 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701488 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701489 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701490 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201702400 đề ngày 01/6/2017.

HĐXX xét thấy đây là hợp đồng giao dịch dân sự có bảo đảm. Các hợp đồng tín dụng này được hai bên ký kết trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc. Hai bên đã thoả thuận về phương thức thanh toán số tiền gốc và lãi suất đã được ghi trong các hợp đồng tín dụng. Khi ký kết hợp đồng bị đơn còn thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho nguyên đơn để bảo đảm khoản tiền vay, và đã được công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Wang, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Đăng ký thế chấp Quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký dăng ký đất đai huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum, nên khi ký giao kết hợp đồng tín dụng là hợp pháp đúng trình tự và đảm bảo về mặt hình thức. Do vậy, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các bên và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết như trong hợp đồng tín dụng.

Tuy nhiên, do bị đơn không chịu đóng lãi theo định kỳ và trả nợ khi đã đến hạn của hợp đồng là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo quy định trong hợp đồng. Nay, nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải thanh toán số tiền cả gốc và lãi tính đến hết ngày 24/5/2019 là 2.934.170.139 đồng (hai tỷ, chín trăm ba mươi bốn triệu, một trăm bảy mươi ngàn, một trăm ba mươi chín đồng). Trong đó: tiền gốc là 2.500.000.000 đ; tiền lãi là 434.170.139 đồng (lãi trong hạn là 195.184.027 đ; lãi quá hạn là 238.986.112 đ) là có cơ sở và đúng pháp luật.

[4] Hội đồng xét xử xét thấy, việc bị đơn có ký hợp đồng tín dụng như nguyên đơn cung cấp là đúng sự thật. Ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S đã nhận đủ số tiền vay là 2.500.000.000 đ (hai tỷ, năm trăm triệu đồng) thể hiện qua các giấy lĩnh tiền vay. Cụ thể, trong ngày 24/3/2017 ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S đã nhận 04 lần với tổng số tiền 2.200.000.000 đ; và ngày 01/6/2017 ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S đã nhận số tiền 300.000.000 đ.

Tuy nhiên, kể từ ngày vay đến ngày 19/12/2017 ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S chỉ mới trả được 111.483.333 đ (một trăm mười một triệu, bốn trăm tám mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba đồng) tiền lãi trong hạn, thể hiện qua các chứng từ giao dịch mà phía ngân hàng cung cấp. Kể từ đó ông N, bà S không đóng nữa phía ngân hàng đã thông báo nhiều lần cho ngân hàng để ông N, bà S biết và thực hiện nghĩa vụ đóng lãi như cam kết trong hợp đồng nhưng ông N vẫn không thực hiện và bỏ đi khỏi địa phương để cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.

Do đó, ngân hàng làm đơn khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ gốc và tiền lãi phát sinh cho đến ngày xét xử sơ thẩm là có căn cứ. Vì vậy, cần áp dụng các Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010, Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[5] Xét hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất: Trong hồ sơ vụ án đã thể hiện bị đơn có đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng đăng ký đăng ký đất đai huyện Đăk Hà vào ngày 24/3/2017 . Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đều được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Wang, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum vào ngày 24/3/2017 theo đúng quy định. Như vậy, việc thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản trên đất là hợp pháp nên có giá trị đảm bảo thi hành. Do đó, hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật và được chấp nhận khi bị đơn không trả được số tiền vay thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án giải quyết để thu hồi vốn là đúng pháp luật.

[6] Từ những nhận định trên – Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đề ngày 20/9/2018. Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) số tiền gốc, lãi trong hạn và quá hạn tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm

24/5/2019 với tổng số tiền là 2.934.170.139 đồng (hai tỷ, chín trăm ba mươi bốn triệu, một trăm bảy mươi ngàn, một trăm ba mươi chín đồng). Trong đó: tiền gốc là 2.500.000.000 đ; tiền lãi là 434.170.139 đồng (lãi trong hạn là 195.184.027 đ; lãi quá hạn là 238.986.112 đ).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng ngày 24/3/2017 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, nếu ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S không trả khoản nợ trên thì Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự huyện Đăk Hà xử lý tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay là quyền sử dụng đất cũng như tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700444 ngày 24/3/2017; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700440 ngày 24/3/2017 hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700754 ngày 31/5/2017 đã được ký kết giữa ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và ngân hàng Agribank chi nhánh huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Được công chứng tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Wang, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 24/3/2017 tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum để thu hồi nợ là phù hợp.

Đối với số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 2.500.000 đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng) ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải chịu toàn bộ và có trách nhiệm hoàn trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).

* Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Theo đó, số tiền án phí là 72.000.000 đồng + (2% x 934.170.139) = 90.683.402 đồng (chín mươi triệu, sáu trăm tám mươi ba ngàn, bốn trăm lẻ hai đồng).

Hoàn trả lại cho nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 203; Điều 227; 228; 235; 271; 272; 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010; Điều 351; 352; 353; 357 Bộ luật dân sự 2015; Điều 166, 167, 179 của Luật đất đai 2013. Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình. Áp dụng khoản 3 Điều 144, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6; Điều 18; khoản 1 Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” đề ngày 20/9/2018.

Buộc ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải trả nợ cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) số tiền 2.934.170.139 đồng (hai tỷ, chín trăm ba mươi bốn triệu, một trăm bảy mươi ngàn, một trăm ba mươi chín đồng). Trong đó: tiền gốc là 2.500.000.000 đ (hai tỷ, năm trăm triệu đồng); tiền lãi là 434.170.139 đ (bốn trăm ba mươi bốn triệu, một trăm bảy mươi ngàn, một trăm ba mươi chín đồng) tính đến hết ngày 24/5/2019. Theo các hợp đồng tín dụng :

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701487 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701488 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701489 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201701490 đề ngày 24/3/2017.

- Hợp đồng tín dụng số 5102LAV201702400 đề ngày 01/6/2017. đã ký kết giữa Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) và ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S.

Nếu ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S không trả được nợ thì Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý đối với tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án tại hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700444 ngày 24/3/2017; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700440 ngày 24/3/2017; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5102LCL201700754 ngày 31/5/2017, được công chứng tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Wang, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum đã được ký kết giữa ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) để thanh toán nợ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Nguyễn Văn N , bà Phạm Thị S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán là 2.500.000.000 đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng) theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ thì lãi suất mà ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Là 2.500.000 đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng) ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải chịu toàn bộ và có trách nhiệm hoàn trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).

Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn N, bà Phạm Thị S phải chịu số tiền 90.683.402 đồng (chín mươi triệu, sáu trăm tám mươi ba ngàn, bốn trăm lẻ hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 43.414.403 đồng (bốn mươi ba triệu, bốn trăm mười bốn ngàn, bốn trăm lẻ ba đồng) theo biên lai số AA/2010/0009467 ngày 04/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum.

Trong thời hạn hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (24/5/2019) nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án để xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6; 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

716
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/DS-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:01/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Hà - Kon Tum
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về