TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 01/2019/DS-PT NGÀY 15/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Q xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 79/2018/TLPT-DS ngày 31 tháng 10 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 17/2018/DS-ST ngày 17/09/2018 của Tòa án nhân dân huyện P bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 117/2018/QĐ-PT ngày 06 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự.
1. Nguyên đơn: Bà A, sinh năm 1968; Nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Q. Có mặt.
2. Bị đơn: Vợ chồng ông B, sinh năm 1977 và bà C, sinh năm 1980; Đồng cư trú tại: Khu phố Chí Đức, thị trấn Chí Thạnh, huyện P, tỉnh Q. Có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà E – Luật sư, Văn phòng luật sư Phúc Luật – Đoàn luật sư tỉnh Q. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông D, sinh năm 1968; nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Q. Có mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn ông B và bà C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa nguyên đơn bà A trình bày: Từ năm 2014 đến năm 2017, giữa bà và vợ chồng ông B, bà C có giao kết hợp đồng bằng miệng mua bán vật liệu xây dựng để vợ chồng ông B, bà C xây dựng nhà ở và làm tuyến đường bê tông xã An Thạch và xã An Mỹ, huyện P. Đến nay vợ chồng ông B còn nợ số tiền 514.000.000đ được hai bên đối chiếu và chốt sổ nợ, bà đã nhiều lần đòi nợ nhưng vợ chồng ông B cố tình không trả, nay bà yêu cầu vợ chồng ông B phải trả đủ số tiền nợ như trên kèm theo lãi suất theo pháp luật tính từ ngày tòa án thụ lý đến ngày xét xử. Đối với yêu cầu xuất hóa đơn của ông B: Tại thời điểm mua ông B không yêu cầu xuất hóa đơn nên bà không xuất hóa đơn giá trị gia tăng, nay ông B yêu cầu là không hợp lý. Về khối lượng vật liệu xây dựng, bà cung ứng đầy đủ và vợ chồng ông B xác nhận không có ý kiến phản đối. Riêng bà C tại thời điểm mua bán bà C có xác nhận vào sổ nợ của bà, giữa ông B và bà C có quan hệ vợ chồng thì ông B mới giao tiền cho bà C trả nợ cho bà, nhưng bà C cho rằng không liên quan và không phải trả nợ là không phù hợp. Do đó yêu cầu Tòa án xem xét không chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
Tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa bị đơn ông B trình bày: Ông thống nhất với trình bày của nguyên đơn về khoản nợ vật liệu xây dựng nhưng đây là hợp đồng miệng giữa ông B và bà A. Về phần xây dựng nhà ông đã trả đủ tiền cho bà A, còn số tiền nợ 514.000.000đ là tiền xây dựng các tuyến đường bê tông. Tuy nhiên cũng trong năm 2014 bản thân ông gặp khó khăn nên báo cho vợ chồng bà A biết, thì vợ chồng bà A đồng ý cho ông tiếp tục mua nợ vật liệu xây dựng đến khi nào quyết toán các tuyến đường bê tông thì trả nợ cho bà A, nhưng đến nay đường bê tông An Thạch chưa thanh lý nên ông B chưa có tiền trả nợ. Để chứng minh điều này bị đơn có cung cấp cho Tòa án 01 USB chứa đựng nội dung ghi âm cuộc trao đổi giữa ông và vợ chồng bà A. Đồng thời yêu cầu bà A phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng đối với khoản nợ ông mua vật liệu xây dựng. Bà A yêu cầu bà C cùng có nghĩa vụ trả nợ, ông và bà C là vợ chồng nhưng việc mua bán chỉ giữa ông với bà A còn bà C không liên quan, chữ ký xác nhận của bà C trong sổ nợ của bà A là do ông B nhờ bà C trả nợ thay, bà C ký xác nhận khoản tiền đã trả chứ không xác nhận nợ. Ông B yêu cầu xem xét khối lượng vật liệu mà bà A cung cấp và giá trong sổ nợ là không phù hợp với thực tế.
Tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bà C vắng mặt. Tại phiên tòa, bà C thống nhất với trình bày của ông B và trình bày bổ sung: Đề nghị Tòa án xem xét vì có thời gian bà A không cung ứng vật liệu xây dựng tuyến đường bê tông An Thạch làm ảnh hưởng và gây thiệt hại đến tiến độ thi công của ông B.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông D trình bày: Ông D thống nhất với trình bày của bà A, theo ông được biết giữa ông B và bà A có hợp đồng bằng miệng về việc mua bán vật liệu xây dựng, nhưng hơn 04 năm vợ chồng ông B chưa trả nợ làm ảnh hưởng đến việc mua bán của bà A, nên đề nghị Tòa án buộc vợ chồng ông B phải trả tiền vật liệu xây dựng cho bà A là phù hợp.
Tại bản án dân sự số 17/2018/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện P quyết định:
Áp dụng Điều 35; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430; Điều 440; khoản 2 Điều 357; và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà A đối với bị đơn vợ chồng ôngB, bà C. Buộc vợ chồng ông B bà C có nghĩa vụ trả nợ cho bà A số tiền mua bán vật liệu xây dựng tổng cộng là 539.700.000đ (Năm trăm ba mươi chín triệu bảy trăm nghìn đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và thông báo quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Ngày 28/9/2018, bị đơn ông B, bà C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Luật sư của bị đơn cho rằng: Tòa án xác định chị C là bị đơn và cùng trả nợ với anh B là không có cơ sở, việc chị C trả nợ cho bà A là việc bình thường không liên quan đến việc giao dịch giữa Doanh nghiệp và ông B. Theo cam kết thì UBND xã An Thạch chưa trả tiền cho ông B, nên khi nào nhận tiền thì ông B trả cho bà A. Về khoản tiền lãi đề nghị Tòa xem xét lại. Theo biên bản thẩm định tại chỗ của TAND tỉnh Q thì giá cả và khối lượng cát sạn là không đúng, nên phải tính toán lại cho phù hợp với thực tế. Về yêu cầu xuất hóa đơn giá trị gia tăng, Tòa sơ thẩm không xem xét là không đúng, đề nghị Tòa phúc thẩm xem xét. Đề nghị cho giám định cuộn băng ghi âm cho phù hợp với chứng cứ có tại hồ sơ.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về vụ án: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa một phần quyết định của án sơ thẩm về việc buộc nguyên đơn phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho bị đơn ông B đối với khoản nợ chưa trả.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đương sự và Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
Về nội dung kháng cáo của bị đơn bà C không đồng ý cùng có trách nhiệm trả nợ của nguyên đơn: Thấy rằng, các khoản nợ với nguyên đơn đều sử dụng mục đích kinh doanh phục vụ nhu cầu của gia đình, bà C và ông B có quan hệ vợ chồng, bà C có trách nhiệm phải biết về các khoản nợ còn lại phải trả. Mặt khác những lần trả nợ bà C đều ký xác nhận dưới số tiền còn lại và tại sổ nợ ngày 02/01/2015 bà C là người trả số tiền 115.000.000đ, còn lại 620.864.000đ bà C có ký xác nhận vào số tiền này và ghi bằng chữ. Nên cần buộc vợ chồng bà C, ông B cùng có trách nhiệm trả nợ cho nguyên đơn là có căn cứ.
Đối với nội dung kháng cáo của bị đơn ông B: Về số lượng, đơn giá vật liệu xây dựng nguyên đơn cung cấp đây là thỏa thuận giữa các bên, tại thời điểm giao nhận vật liệu, chốt sổ nợ còn lại đều có chữ ký của bà C hoặc ông B và đều không có ý kiến phản đối, mà vẫn tiếp tục giao dịch, cấp sơ thẩm không xem xét đối với yêu cầu này là có căn cứ. Đối với yêu cầu của bị đơn về việc buộc nguyên đơn phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng, thấy rằng hai bên mua bán từ 2014 đến năm 2017 đều thực hiện theo sự thỏa thuận bằng miệng, xác nhận nợ sau khi trả dần không yêu cầu xuất hóa đơn tại thời điểm đó, nên cấp sơ thẩm không xem xét là phù hợp.
Bị đơn ông B yêu cầu trả nợ cho nguyên đơn sau khi UBND xã An Thạch tất toán toàn bộ nợ công trình, nội dung này thể hiện trong file ghi âm nhưng ông B không chứng minh được nguồn gốc xuất xứ. Thực tế tại phiên tòa ông B thừa nhận nội dung ghi âm chỉ là trao đổi giữa ông B và ông D, chứ bà A - chủ Doanh nghiệp không tham gia, nên không có căn cứ để chấp nhận. Về yêu cầu tính lãi thì bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán, nếu không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo Điều 357 BLDS, nên cấp sơ thẩm chấp nhận phần lãi suất tính từ ngày thụ lý vụ án đến ngày xét xử là phù hợp.
Từ những viện dẩn trên, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Về án phí: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông B và bà C. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 35; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430; Điều 440; khoản 2 Điều 357; và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà A theo đơn khởi kiện ngày 30/01/2018. Buộc vợ chồng ông B và bà C phải trả cho bà A 539.700.000đ (Năm trăm ba mươi chín triệu bảy trăm nghìn đồng) về khoản tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản (trong đó tiền gốc 514.000.000đ, tiền lãi 25.700.000đ).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền phải thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản lãi suất chậm trả trên khoản tiền chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự .
2. Về án phí: Căn cứ Điều 147, 148 BLTTDS.
Hoàn lại cho bà A 13.080.000đ (Mười ba triệu không trăm tám mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm. Đã nộp tại biên lai thu tiền số 0007240 ngày 06/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P.
Bị đơn vợ chồng ông B, bà C phải chịu 25.588.000đ (Hai mươi lăm triệu năm trăm tám mươi tám nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm tại biên lai thu tiền số 0011483 ngày 08/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P nên còn phải nộp 25.588.000đ.
3. Về chi phí thẩm định tại chỗ: Bà A phải chịu 2.000.000đ, vợ chồng ông B phải chịu 2.000.000đ. Ông B đã nộp tạm ứng nên bà A phải hoàn trả lại cho ông B.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 01/2019/DS-PT ngày 15/01/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 01/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về